Cảnh báo giật mình về giống cây mắc ca

Theo các chuyên gia về mắc ca, hiện diện tích loại cây này ở Việt Nam có thể đã lên đến 5.000 ha, chứ không phải hơn 2.000 ha. Tuy nhiên, khoảng 50% số cây là giống trồng từ hạt, nguồn gốc không rõ ràng, gây rủi ro cho nông dân.
Tại buổi tọa đàm: Mắc ca từ “vì sao” đến “như thế nào” diễn ra ngày 14/4, ông Bùi Hữu Hòa, nông dân trồng cây mắc ca khá thành công ở xã Tân Hà, huyện Lâm Hà (Lâm Đồng) cho biết: Trên thị trường, một số người làm ăn không có lương tâm, họ lấy mắt ghép giả. Thực tế, dân cứ thấy rẻ là mua, nhưng cây ghép đưa ra đồng cũng phải mất 2-2,5 năm mới xuất được.
“Bà con nên thật tỉnh táo với cây giống. Ở khu vực nhà tôi, có nhiều vườn giống lắm. Có người dẫn tôi đi thăm vườn mắc ca, bảo đã trồng 5 năm không ra hoa kết trái”- ông Hòa nói.
Nông dân huyện Tuy Đức, huyện Đăk Nông chăm sóc vườn mắc ca. Ảnh: danviet.vn
Nông dân huyện Tuy Đức, huyện Đăk Nông chăm sóc vườn mắc ca. Ảnh: danviet.vn
Việc quy hoạch cây mắc ca rất quan trọng và theo các nhà nghiên cứu phải làm rõ hơn vai trò quản lý của Nhà nước và các bộ ban ngành liên quan. Các cơ quan trên cần xây dựng quy hoạch để làm sao phát triển mắc ca có hiệu quả, làm sao kiểm soát chất lượng nguồn giống, xác định được cụ thể tỉnh nào, khu vực nào thì trồng mắc ca phù hợp.
GS Hoàng Hòe, nguyên Viện trưởng Điều tra Quy hoạch rừng (Bộ NN&PTNT)- chuyên gia hàng đầu về cây mắc ca cho biết: Cây mắc ca không phải vùng nào cũng trồng được, chỉ hợp với vùng Tây Nguyên và Tây Bắc.
Từ lúc mang loại cây này về nước hơn 20 năm nay, Việt Nam hiện có khoảng 1 triệu cây, diện tích khoảng 5.000 ha, gần như gấp đôi con số Bộ NN&PTNT mới công bố. Tuy nhiên, theo GS Hòe, trong 1 triệu cây đó, có khoảng 50% cây ghép, số còn lại là giống cây từ hạt, nguồn gốc không rõ ràng.
TS Nguyễn Trí Ngọc, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển công nghệ nông lâm nghiệp Thành Tây cho rằng, mắc ca có thể mang lại giá trị kinh tế cao cho nông dân. Tuy nhiên, mục tiêu trồng 200 nghìn hay chỉ 10 nghìn ha là những con số cụ thể, và không nên tranh cãi về những con số. Vấn đề là làm thế nào cho ra kết quả.
TS Ngọc cũng cho rằng, việc đầu tiên là xác định quy hoạch vùng trồng cho phù hợp, để quản lý, phát triển bền vững. Mặt khác, phải kiểm soát chất lượng giống cây. “Tới 50% cây mắc ca mọc từ hạt, chất lượng sẽ bị ảnh hưởng, vì tới 5 năm sau có thể cho hoa, kết quả. Vì thế, nếu không quản lý chặt từ cây giống, khi đưa ra sản xuất thì rất nguy hiểm”- ông Ngọc cảnh báo.
 TS Trần Vinh - Phó Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên khẳng định: “Vấn đề quan trọng then chốt đó là khâu làm giống, quản lý giống. Nếu không quản lý chặt chẽ nguồn giống sẽ dẫn tới việc không kiểm soát được chất lượng và giống tốt-giống kém lẫn lộn. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn tới người nông dân. Bên cạnh đó, chúng ta cần xây dựng quy trình kỹ thuật chuẩn để mang lại năng suất chất lượng cao nhất cho cây mắc ca. Chúng ta cần làm đồng bộ ngay từ khâu quy hoạch, quản lý cây giống, chuyển giao khoa học kỹ thuật, sản xuất, chế biến, xuất khẩu…”.
Về quản lý chất lượng giống, ông Quách Đại Ninh – Phó Vụ trưởng Vụ Phát triển rừng (Tổng cục Lâm nghiệp) khẳng định: “Hiện nay Việt Nam đã có 10 giống mắc ca chất lượng được Bộ NNPTNT công nhận với gần 500ha mắc ca có nguồn gốc rõ ràng được đánh giá đủ tiêu chuẩn cung cấp cho thị trường. Nông dân cần sử dụng những bộ giống này”.
Cũng theo TS Trần Vinh, trong số 10 giống mà viện nghiên cứu thì có 4-5 giống phù hợp với điều kiện của Tây Nguyên. “Về phương thức canh tác, chúng tôi thấy phương pháp trồng xen rất hiệu quả, không ảnh hưởng đến cây khác. Cây cà phê ưa bóng, khi trồng xen mắc ca thì tạo bóng cho cây cà phê, cây mắc ca lại được hưởng từ nước tưới từ cây phê khiến mắc ca có tỷ lệ hoa và đậu quả nhiều hơn. Chúng tôi đánh giá lại rằng mắc ca hoàn toàn trồng được trên đất Tây Nguyên, trồng xen để mang lại hiệu quả kinh tế cho bà con nông dân”- TS Vinh cho biết.

Theo tienphong.vn/danviet.vn

Tin mới