Mùa trỉa lúa rẫy ở vùng cao xứ Nghệ

(Baonghean.vn) - Tháng 4 và tháng 5 âm lịch là mùa trỉa lúa rẫy ở huyện Kỳ Sơn. Vào mùa này ở vùng có diện tích lúa rẫy lớn nhất Nghệ An, người dân tổ chức thành những nhóm hàng chục người giúp nhau trỉa lúa.
Hiện chính quyền địa phương không khuyến khích việc phát triển lúa rẫy. Nhưng việc xóa bỏ nạn phát nương làm rẫy là một việc cực kỳ khó khăn nhất là với huyện Kỳ Sơn, nơi phần lớn bà con không thể cấy lúa nước vì địa hingf núi cao và thiếu nước. Ảnh : Hữu Vi
Huyện Kỳ Sơn có 21 xã, thị trấn thì tất cả các xã đều có diện tích canh tác lúa rẫy và đây là nguồn cung cấp lương thực chính cho người dân. Tuy nhiên, vì nguy cơ dễ dẫn đến cháy rừng, hiện chính quyền địa phương không khuyến khích việc phát triển lúa rẫy. Nhưng việc này rất khó khăn, bởi nơi đây phần lớn bà con không thể cấy lúa nước vì địa hình núi cao. Ảnh: Hữu Vi
Kỳ Sơn có hơn 6000ha lúa rẫy. Năng suất thấp nên các gia đình phải phát với diện tích rừng lớn mới có đủ gạo ăn. Vào mùa trỉa lúa, họ thường tổ chức thành các nhóm hàng chục người giúp nhau trỉa lúa. Ảnh : Đào Thọ
Mùa trỉa lúa rẫy của đồng bào các dân tộc thiểu số gồm Thái, Khơ mú và Mông ở huyện Kỳ Sơn (Nghệ An) thường bắt đầu từ tháng tư. Trước đó, vào tháng hai âm lịch là mùa phát nương làm rẫy. Hiện nay, Kỳ Sơn có hơn 6.000 ha lúa rẫy. Vào mùa trỉa lúa, họ thường tổ chức thành các nhóm hàng chục người giúp nhau. Ảnh: Đào Thọ
Hầu hết những người trưởng thành là người dân tộc thiểu số ở huyện Kỳ Sơn đều biết cách trỉa lúa rẫy. Khoảng cách giữa các khóm lúa thường được tính bằng chiều dài từ gót  đến đầu ngón chân gọi là một bàn chân. Khoảng cách giữa các khóm lúa thường tùy thuộc vào đất ở đót tốt hay không. Ảnh : Hữu Vi
Hầu hết người dân tộc thiểu số trưởng thành ở huyện Kỳ Sơn đều biết cách trỉa lúa rẫy. Khoảng cách giữa các khóm lúa thường được tính bằng chiều dài một bàn chân. Ảnh: Hữu Vi
 
Công cụ tra hạt là một con dao được rèn riêng có đầu sắc nhọn và được tra cán gỗ dài . Ảnh : Hữu Vi
Công cụ tra hạt được rèn riêng có đầu sắc nhọn và gắn với cán gỗ dài. Ảnh: Hữu Vi
 
Phần lớn giống lúa đều có từ lâu đời. Chúng thường là nếp và được gọi bằng những tên gọi khác nhau. Một số vùng cũng trỉa giống lúa tẻ. Ảnh : Hữu Vi
Phần lớn giống lúa đều là nếp nhưng một số vùng cũng trỉa giống lúa tẻ. Ảnh: Hữu Vi
 
Số hạt lúa cho mỗi khóm lúa cũng được quy định theo kinh nghiệm của cư dân bản địa. Ngoài ra, số hạt lúa của một khóm lúa còn phụ thuộc vào phẩm chất đất, giống lúa, thời tiết và mùa vụ. Ảnh : Đào Thọ
Số hạt lúa cho mỗi khóm lúa cũng được quy định theo kinh nghiệm của cư dân bản địa. Ngoài ra, số hạt lúa của một khóm lúa còn phụ thuộc vào chất đất, địa hình, giống lúa, thời tiết và mùa vụ. Ảnh: Đào Thọ
 
Phút nghỉ ngơi giữa buổi làm việc của những người trỉa lúa rẫy. Ảnh Đào Thọ
Phút nghỉ ngơi giữa buổi làm việc của những người trỉa lúa rẫy. Ảnh: Đào Thọ
 
Những đứa trẻ theo cha mẹ lên rẫy vào ngày hè. Chúng đôi khi phụ giúp cha mẹ việc nấu ăn, giữ em bé, nhưng chủ yếu là vui đùa. Ảnh : Đào Thọ
Những đứa trẻ theo cha mẹ lên chòi rẫy vào ngày hè. Chúng đôi khi phụ giúp cha mẹ việc nấu ăn, giữ em... Ảnh: Đào Thọ

Tin mới