Nguyễn Xuân Linh và vai trò lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám ở Nghệ Tĩnh

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
(Baonghean.vn) - Nguyễn Xuân Linh là một nhà lãnh đạo kiên trung, tài ba của Đảng. Ông là người đứng mũi chịu sào của Đảng trong nhiều giai đoạn cách mạng ở Nghệ Tĩnh. Đặc biệt, ông là nhà lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng Tám ở Nghệ Tĩnh.

Chiến sỹ cộng sản kiên trung

Nguyễn Xuân Linh sinh năm 1906, nhưng theo lý lịch tự khai thì ông sinh ngày 09/9/1909 tại quê nhà (làng Xuân La nay thuộc xã Xuân Hòa, huyện Nam Đàn). Hồi hoạt động cách mạng bí mật ông có các bí danh Lang, Hợi, Cung.

Thân phụ ông là cử nhân hán học Nguyễn Xuân Xưởng (1876 - ?), thân mẫu là bà Nguyễn Thị Yên. Mẹ mất sớm, Nguyễn Xuân Linh từ nhỏ đã theo cha khi cụ làm Giáo thụ phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Lúc đầu, ông học chữ Hán với cha, rồi học trường Pháp - Việt (Đức Thọ), tốt nghiệp, được phân bổ về dạy ở trường Thái Yên, một trong mấy trường sơ học mở sớm nhất ở Đức Thọ.

Là một thanh niên yêu nước, giác ngộ cách mạng sớm, Nguyễn Xuân Linh được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam từ tháng 4/1930, được phân công hoạt động ở huyện Hương Khê.

Ông Nguyễn Xuân Linh. Ảnh: Tư liệu

Ông Nguyễn Xuân Linh. Ảnh: Tư liệu

Tháng 10/1930, ông bị bắt trong khi đi rải truyền đơn ở Đức Thọ, bị kết án 3 năm tù giam và 1 năm quản chế (sau Khâm sứ Trung Kỳ gia thêm 8 tháng tù giam - Bản án số 139 - 14/10/1930), nhưng chỉ bị giam ở nhà lao Vinh đúng 1 năm thì được tha.

Sau khi ra tù, Nguyễn Xuân Linh về Nghệ An và tiếp tục hoạt động để phục hồi tổ chức Đảng ở Vinh khi mà cả hai Khu ủy Bến Thủy và Vinh đều đã bị địch phá vỡ từ tháng 8/1931. Tháng 12/1931, Khu ủy lâm thời Vinh được khôi phục, do Nguyễn Nhật Tân làm Bí thư cùng 2 ủy viên là Nguyễn Xuân Linh và Nguyễn Đức Bá. Khu ủy đã ra tờ báo “Sóng cách mạng” để tuyên truyền chủ trương của Đảng, lên án chính sách cải lương thâm độc của thực dân Pháp và cổ vũ, hướng dẫn quần chúng đấu tranh mà phần lớn các bài viết là của Nguyễn Xuân Linh với bút danh là Nam hoặc Xuân.

Đến giữa tháng 3/1932, Khu ủy Vinh lại bị địch phá vỡ, chỉ còn lại Nguyễn Xuân Linh. Một lần nữa ông lại quyết tâm phục hồi lại tổ chức Đảng. Giữa tháng 4/1932, ông triệu tập Hội nghị cán bộ để khôi phục Khu ủy. Ông được bầu làm Bí thư Khu ủy Vinh. Khu ủy hoạt động được 5 tháng, đến tháng 9/1932 lại bị địch phá vỡ.

Nguyễn Xuân Linh bị bắt giam ở Vinh, bị kết án 13 năm khổ sai và 6 năm rưỡi quản chế (theo Bản án số 246 ngày 22/11/1932 của Tòa án Nghệ An), rồi đày đi Lao Bảo, Buôn Mê Thuật. Ngày 21/9/1943, ông được tha tù rồi giải về Vinh quản chế. Tại đây, ông tiếp tục hoạt động, xây dựng lại cơ sở Đảng, tham gia thành lập Xứ ủy Trung Kỳ. Đêm 17 rạng 18/4/1944, ông lại bị bắt ở Diễn Châu (theo Lệnh truy nã số 1889 ngày 1/3/1944 của Sở mật thám Huế), bị giam ở Vinh cho đến tháng 3/1945, nhân sự kiện Nhật hất cẳng Pháp, ông mới ra khỏi tù.

Về Nguyễn Xuân Linh trong những năm tháng bị tù đày, ông Đặng Thí (nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Liên khu ủy 4), là bạn tù của ông, viết: “Nguyễn Xuân Linh đã qua hơn 13 năm bị tù đày. Anh đã phải chịu đựng mọi đọa đày, nếm đủ mùi đau khổ của chế độ tù đày dã man của bọn thực dân và tay sai. Anh cũng là một người cộng sản kiên cường dám đương đầu với kẻ thù, thường xuyên có mặt trong các cuộc đấu tranh đòi cải thiện chế độ nhà đày, chống mọi hành động tàn ác của bọn chủ ngục suốt từ Lao Bảo đến Ban Mê Thuột”. “Tôi tôn trọng anh về tuổi đời và tuổi Đảng, về những kinh nghiệm già dặn, và sự cống hiến của anh, nhất là thái độ chân tình và quan điểm đúng đắn của anh”.

Người lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám ở Nghệ Tĩnh

Khi Nguyễn Xuân Linh ra khỏi tù (3/1945), phát xít Nhật đã thay thế thực dân Pháp cai trị trên toàn cõi Đông Dương. Tại Nghệ An và Hà Tĩnh, sau cuộc đảo chính 9/3/1945, quân Nhật thay thế quân Pháp, dựng nên chính quyền tay sai thân Nhật và thực hiện chính sách cai trị, bóc lột rất hà khắc. Nạn đói rất khủng khiếp. Riêng 3 tháng đầu năm 1945, Nghệ Tĩnh có hơn 10 vạn người chết đói.

Nhật đảo chính Pháp, chiếm Hà Nội tháng 3/1945. Ảnh: Tư liệu

Nhật đảo chính Pháp, chiếm Hà Nội tháng 3/1945. Ảnh: Tư liệu

Lúc này, bối cảnh quốc tế và trong nước đã có nhiều biến chuyển lớn lao và nhanh chóng. Phe phát xít sắp thất bại hoàn toàn. Nắm bắt thời cơ, Trung ương Đảng đã có chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Việt Minh nhiều địa phương đã lãnh đạo nhân dân phá kho thóc Nhật để cứu đói, chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa giành chính quyền.

Trong lúc đó, Đảng bộ của 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh đều chưa được khôi phục. Hàng ngàn đảng viên và quần chúng mới ra tù nhưng vẫn chưa có tổ chức để tiếp tục hoạt động. Lực lượng đảng viên vẫn chưa có đầu mối để liên lạc với Trung ương. Sau khi ra tù trở về ai cũng nóng lòng đẩy mạnh phong trào, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Song vì mỗi người hoạt động mỗi địa bàn, lại ở các thời kỳ khác nhau, mỗi nhà tù khác nhau; lúc bị bắt, khi được tha cũng mỗi người một hoàn cảnh và điều kiện khác nhau... nên cũng có nhiều ý kiến khác nhau về việc khôi phục lại Đảng bộ.

Trong tình hình đó, muốn khôi phục các Đảng bộ một cách thận trọng và vững chắc cần có thời gian. Nhưng thời cơ khởi nghĩa đang đến rất gần, rất nhanh. Nếu không nắm bắt và tận dụng tốt thì nó sẽ không bao giờ trở lại. Nguyễn Xuân Linh đã cùng một số cựu chính trị phạm 2 tỉnh Nghệ - Tĩnh nhận thức sâu sắc điều này nên chủ trương thành lập Ban vận động Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh để tập hợp lực lượng, gây dựng phong trào ở hai tỉnh. Đây là sáng kiến và cống hiến tuyệt vời của Nguyễn Xuân Linh để vừa khắc phục tình trạng khủng hoảng lãnh đạo của phong trào cách mạng, vừa mở đường cho việc khôi phục tổ chức Đảng ở Nghệ Tĩnh.

Ngày 19/5/1945, Hội nghị thành lập Ban vận động Mặt trận Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh được tổ chức tại thành phố Vinh. Nguyễn Xuân Linh được cử làm Trưởng ban vận động và chịu trách nhiệm liên lạc với Trung ương.

Không đầy 1 tháng sau, Nguyễn Xuân Linh liên lạc được với Trung ương và tiếp nhận chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta để về triển khai ở địa phương.

Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 12/3/1945 “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Ảnh: Tư liệu

Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 12/3/1945 “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Ảnh: Tư liệu

Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh đã nhanh chóng tập hợp được đội ngũ và khẩn trương tổ chức hoạt động; Thành lập Xưởng in Phạm Hồng Thái, xuất bản báo Kháng địch để tuyên truyền, giáo dục, kêu gọi quần chúng tham gia Việt Minh; Vạch mặt bản chất của phát xít Nhật và các thủ đoạn bịp bợm của chính quyền thân Nhật; Phổ biến, giải thích về đường lối, chủ trương của Trung ương Đảng và Việt Minh; Củng cố mối đoàn kết, thống nhất trong Đảng…

Dưới sự lãnh đạo của Việt Minh liên tỉnh, phong trào đấu tranh chống Nhật đã được tập hợp và phát triển. Từ tháng 5 đến tháng 7/1945 ở Nghệ An có 259 cuộc đấu tranh. Ở Hà Tĩnh, các huyện đều có các cuộc đấu tranh nổ ra. Cùng với sự phát triển của phong trào là sự kiện toàn của hệ thống tổ chức Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc như Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Văn hóa cứu quốc… Đặc biệt là thành lập các đội vũ trang tuyên truyền để chuẩn bị lực lượng cho tổng khởi nghĩa.

Ngày 8/8/1945, Nguyễn Xuân Linh đã chủ trì Đại hội đại biểu Việt Minh liên tỉnh để kiểm điểm tình hình và bàn kế hoạch chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Việt Minh liên tỉnh do Nguyễn Xuân Linh làm Bí thư. Đây chính là ban lãnh đạo cao nhất của cuộc tổng khởi nghĩa trong Cách mạng tháng Tám ở Nghệ Tĩnh.

Đại hội vừa kết thúc thì nhận được tin Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh. Việt Minh liên tỉnh đã phát lệnh khởi nghĩa: “Bố trí ngay việc cướp chính quyền, lập Ủy ban nhân dân cách mạng…” và phát truyền đơn kêu gọi: “Hãy đoàn kết dưới ngọn cờ đỏ sao vàng của Việt Minh, đứng dậy đánh đổ Chính phủ Việt gian, lập chính quyền nhân dân cách mạng, sẵn sàng lực lượng đối phó với tất cả sức phản động”.

Ngày 21/8/1945, Chính quyền cách mạng chính thức được thiết lập ở thành phố Vinh – tỉnh lỵ Nghệ An. Cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám đã kết thúc thắng lợi dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh do Nguyễn Xuân Linh là Bí thư.

Nhân dân tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở thành phố Vinh tháng 8/1945. Ảnh: Tư liệu

Nhân dân tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở thành phố Vinh tháng 8/1945. Ảnh: Tư liệu

Vĩ thanh

Đầu tháng 10 năm 1945, Tỉnh ủy Nghệ An lâm thời được thành lập, Nguyễn Xuân Linh được cử làm Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An, Phó Bí thư Xứ ủy Trung bộ.

Tháng 12/1949 ông chuyển sang làm Ủy viên Thường vụ rồi Phó Bí thư Liên khu ủy IV, Chánh án Tòa án quân sự Liên khu.

Từ năm 1951 đến năm 1955, ông là Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh. Sau đó, ông là Ủy viên Thường vụ Liên khu ủy phụ trách dân vận và là Giám đốc Tổng Công ty Lâm thổ sản.

Tháng 12/1957, ông được giao đi kiểm tra công tác sửa sai trong Cải cách ruộng đất.

Tháng 12/1959, ông lại được cử về làm Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh lần thứ hai, cho đến tháng 5/1972 được Trung ương Đảng và Quốc hội điều động ra Hà Nội đảm nhiệm chức vụ Ủy viên Ban Thường vụ Quốc hội, Thư ký Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho đến lúc về hưu, 1/1978.

Ông mất tại Hà Nội ngày 10/3/1988, thọ 82 tuổi.

Với quê hương Nghệ Tĩnh, ông luôn có mặt những lúc gian khó nhất kể từ khi sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Đi đầu trong xây dựng, phục hồi tổ chức Đảng là ông. Xây dựng Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh, tổ chức tổng khởi nghĩa xóa bỏ chính quyền cũ, xây dựng chính quyền mới là ông. Chỉ đạo tổ chức kháng chiến, nhất là trong chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ cũng là ông. Và, xin nói thêm, ông là nhà lãnh đạo rất quan tâm đến văn hóa và giáo dục. Ông là sáng lập viên, Chủ tịch danh dự của Hội Văn nghệ Hà Tĩnh với tư cách một người làm thơ.

Để khép lại bài viết, xin trích lời ông Võ Thúc Đồng, Nguyên Bí thư Liên khu ủy IV, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An nói về ông: “... Với tinh thần lạc quan, tin tưởng sắt đá vào thắng lợi, anh đã cùng đông đảo các đồng chí trong nhà tù không chịu khuất phục, cùng nhau đoàn kết, đấu tranh...”, “... Ở anh còn toát lên một đức tính quý báu nữa. Đó là phong cách tiếp xúc với các lớp người có chính kiến khác nhau. Cách xét người xét việc của anh vừa có tính nguyên tắc, vừa mềm dẻo..., vừa có tình, vừa có lý, vừa bình tĩnh, vừa kiên quyết. Nhờ vậy, anh đã cùng các đồng chí khác tập hợp được đông đảo lực lượng nhanh nhất, trước, trong và sau Cách mạng Tháng Tám 1945...”.

Tin mới