Những người giữ hồn Việt trên đất bạn Thái Lan

 Thầy giáo Nguyễn Sỹ Tưởng trong lớp dạy tiếng Việt ở Thái Lan.
 Thầy giáo Nguyễn Sỹ Tưởng trong lớp dạy tiếng Việt ở Thái Lan.

Trên chuyến phà từ Thà Khẹc vượt sông Mêkông sang đất Thái, tình cờ tôi gặp một cô gái rất xinh trong bộ sắc phục sĩ quan Không quân Hoàng gia Thái Lan. Thấy chúng tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt, cô vui vẻ hỏi :

- Các anh mới từ Việt Nam sang đây ?

Chúng tôi gật đầu và ngạc nhiên khi nghe cô phát âm tiếng Việt rất chuẩn.

Chẳng biết vì sắc đẹp và câu chuyện của cô gái Thái hút hồn hay vì câu chuyện về người thầy giáo dạy tiếng Việt của cô trên đất Thái cuốn hút mà dòng sông Mê Kông hẹp lại rất nhanh. Phà cập bến, chúng tôi cố làm thật nhanh thủ tục nhập cảnh vào đất Thái và ngỏ ý muốn theo cô về thị trấn Mương gặp thầy giáo.

Người sĩ quan trẻ mỉm cười gật đầu và giúp chúng tôi làm thủ tục nhập cảnh khá nhanh. Vừa lên xe, cô đổi giọng xưng hô và tự giới thiệu:

- Tên cháu gọi theo tiếng Việt là Núi. Năm nay cháu tròn 24 tuổi. Trường cũ nơi cháu học ở An-phi-Ban-xa-na, nhưng bây giờ ta đến nhà thăm thầy giáo trước đã. Thầy giáo của cháu tên là Vương Đình Chính, năm nay đã gần tám mươi tuổi rồi!

Chỉ hơn mười lăm phút sau, xe đã dừng lại trước căn nhà nhỏ ở một đường phố hẹp. Núi nhảy xuống rất nhanh, biến vào nhà. Lát sau, một người đàn ông thấp, gầy, đầu hói, tóc bạc, mắt lấp lánh chiếc kính cận dày cộp xuất hiện trước cửa. Chúng tôi đoán ngay đây là bác Vương Đình Chính, thầy giáo cũ của Núi. Ông niềm nở bắt tay từng người rồi dẫn chúng tôi vào bộ xa lông cũ kỹ kê ở góc nhà, chỉ tay vào những két nước giải khát đủ màu sắc chất đống ngồn ngộn giữa nhà:

- Ta chịu khó ngồi chật vào đây. Ngoài kia tôi nhường cho con gái làm kho chứa hàng. Bà nhà tôi đã ngoài bảy mươi nhưng vẫn đi bán hàng cùng con gái ngoài chợ. Các anh ở đâu ta bên Việt? Còn tôi quê Nghệ, bố mẹ đưa sang đây từ lúc mới lên 9. Hồi đó ở quê ta bọn giặc đàn áp Cộng sản ác liệt lắm. Bố tôi là công nhân Đềpô Vinh, cũng đi theo Cộng sản, bị truy lùng dữ quá nên phải đưa cả nhà lánh sang đây. Mới đó mà đã gần một thế kỷ rồi?

- Nghe nói, bác cũng làm thầy giáo dạy tiếng Việt trên đất Thái đã gần nửa thế kỷ và học trò của bác có nhiều người thành đạt lắm?

Bác Chính gật đầu, cười và thêm:

- Tôi dạy học hơn nửa thế kỷ rồi chứ, từ năm 1948 kia mà. Hồi đó đi dạy tiếng Việt cho học sinh cũng bị lính tráng và nhà cầm quyền ở đây truy lùng chẳng khác chi đi làm Cộng sản ở bên ta. Các anh đã nghe chuyện tôi cưới vợ đến bốn lần chưa?

Thấy cả đám chúng tôi trố mắt ngạc nhiên, bác Chính lại cười rung cả hai cánh vai gầy:

- Nhưng chỉ có một bà là vợ thật, còn ba lần kia là cưới... giả. Tôi không chỉ dạy học ở huyện Mương, mà còn đi dạy ở nhiều tỉnh khác nữa. Đâu có người Việt mình là tôi tìm đến dạy. Hồi đó làm gì có lương. Phụ huynh nuôi tôi trong nhà và cho ăn cơm. Mỗi năm họ góp tiền may cho thầy hai bộ quần áo. Đến nơi nào cũng bị tra vấn truy xét bắt bớ nên tôi phải chọn nhà phụ huynh nào có con gái lớn, xin làm đám cưới giả, mang tiếng đến ở rể để che mắt nhà chính quyền mà dạy học.

- Chắc những lần cưới giả ấy vợ bác không biết chứ? Nếu không thì...

Bác Chính lắc đầu cười:

- Bà ấy biết hết, bởi bà ấy cũng đi làm giáo viên như tôi. Vợ tôi quê ở Triệu Phong, Quảng Trị, được bố mẹ cho ăn học có bằng Prime thời Pháp. Sang đây, thấy hầu hết các em gái người Việt không biết chữ, cô ấy mở lớp dạy chữ cho các em. Chúng tôi quen nhau từ công việc dạy học rồi nên vợ nên chồng...

- Một cặp vợ chồng nghèo lại đi dạy không có lương bổng thì làm sao nuôi con được?

- Vậy mà chúng tôi có với nhau ba mặt con và đều nuôi dạy chúng nên người. Công lao ấy là của vợ tôi và gia đình bên ngoại. Cô ấy dạy trong làng, mọi việc nhờ bố mẹ vợ lo liệu. Còn tôi đi khắp nơi. Mỗi lần mở lớp dạy học, phải tính toán chỗ tiến chỗ lui như một trận đánh... Mỗi lớp chỉ mươi lăm em, nam riêng nữ riêng. Trên bàn là sách vở nhưng dưới đất để sẵn đồ nghề. Hễ có người lạ vào là thu sách vở thật nhanh rồi bày đồ nghề lên cắm cúi làm... Đã cẩn thận thế mà nhiều bận vẫn bị bất ngờ, lính ập vào nhanh quá, không kịp giấu sách vở, tôi phải trốn vào bức tường hai ngăn đã xây sẵn trong hố xí hoặc trèo lên nằm dài trên máng nước nhà khác để tránh bị bắt...

- Bác chỉ dạy chữ và tiếng Việt thôi à?

Thầy giáo Chính lắc đầu:

- Phải dạy đầy đủ các môn như chương trình phổ thông bên ta chứ. Hồi đó, con em người Việt không được đến các trường học của người Thái nên phải dạy toàn diện để lớn lên các em có thể học nghề kiếm sống và làm những việc có ích cho nước nhà nữa chứ. Tôi dạy các em học từ vỡ lòng đến hết cấp II ( lớp 7 trước đây). Ngoài dạy chữ dạy tiếng, còn phải truyền đạt cho các em tình yêu Tổ quốc Việt Nam, giữ cho được cái hồn Việt trong một con người. Những năm đất nước mình bị chia cắt, hai miền thù địch nhau, dạy cho các em hiểu điều này là vô cùng khó!

- Chương trình do thầy tự biên soạn à?

Bác Chính chưa trả lời mà lại lục tủ lấy ra một số tập sách cũ, màu giấy đã ngả vàng, đưa cho chúng tôi xem:

- Chỉ một vài môn như Lịch sử, Địa lý, Sinh vật... là tôi tự soạn, còn các môn khác theo đúng chương trình bên ta. Tôi phải nhiều lần viết thư nhờ bạn bè trong nước mua sách giáo khoa đem về tháo rời ra từng tờ, xáo trộn nhiều môn khác nhau rồi gửi qua Bưu điện. Hồi còn chiến tranh chống Pháp chống Mỹ, thư từ khó khăn lắm. Có khi phải gửi vòng qua nhiều nước hàng mấy tháng mới đến nơi.

Không ai bảo ai, tất cả chúng tôi đều lặng im xúc động như uống từng lời của bác Chính và thấy đắng chát từ trong lòng trào lên. Một người đã dành gần trọn cả tuổi thanh xuân vào một việc tưởng rất đơn giản nhưng ở trên đất Thái những năm trước đây lại vô cùng nguy hiểm, phải hy sinh thầm lặng và vượt qua nhiều gian nan khổ cực không kém gì một chiến sĩ biệt động đánh giặc trong lòng địch ở quê nhà.

- Bây giờ, chắc con em người Việt mình đã được cắp sách đến các trường phổ thông của Thái Lan rồi chứ?

- Chỉ mới ba năm lại đây, kể từ khi hai Chính phủ Việt - Thái có hiệp định về Việt kiều ở Thái Lan. Tuy con em mình được đến trường Thái nhưng chúng tôi vẫn duy trì nhiều trường nhiều lớp dạy tiếng Việt ngoài học chính quy để cho con em mình về học tiếng Việt. Một điều rất mừng là bây giờ không chỉ có con em người Việt, mà còn nhiều trẻ người Thái, người Hoa, người Lào... cũng được bố mẹ đưa đến xin học tiếng Việt. Cô Núi không phải là trường hợp đặc biệt đâu. Những lớp dạy tiếng Việt ban đêm còn có rất đông các nhà doanh nghiệp nước ngoài đến học.

Khi chúng tôi đến lớp học tiếng Việt trên phố An-phi-Ban-ba-xa, thầy giáo Nguyễn Sỹ Tưởng đang dạy các học trò đọc một bài ca dao tiếng Việt. Điều lạ là trong lớp, ngoài hơn chục trò nhỏ lứa tuổi thiếu niên, ở hàng ghế cuối có mấy người lớn cũng dán mắt vào sách giáo khoa tròn miệng vừa đánh vần vừa đọc từng chữ. Khi thầy Tưởng ngừng dạy, mời chúng tôi vào lớp.

-Thầy Tưởng cũng là một doanh nhân? Tôi quay sang thầy Tưởng, thầy gật đầu xác nhận:

- Tôi có ba nhà xay xát lớn, công suất 6.000 tấn/ngày, chuyên thu mua các loại lúa rồi xay xát thành gạo để xuất khẩu. Quê tôi ở Nam Định nhưng tôi đã sang Nghệ An hai lần để tìm địa điểm xin xây dựng nhà máy chế biến lúa gạo đặc sản để xuất khẩu. Tôi chọn đất Nghệ là vì từ đây sang đó rất thuận tiện, chỉ mất chưa đầy một ngày đường. Nghệ An lại có cảng biển lớn, thuận lợi cho việc xuất nhập khẩu. Nhưng điều quan trọng nhất để tôi chọn đặt nhà máy ở đây vì đất Nghệ và khu vực miền Trung thường hay bị bão lụt lớn vào mùa thu hoạch. Lúa chưa chín mà bị ngâm nước coi như bỏ đi. Những thứ ấy nếu gặt kịp, đưa vào nhà máy của tôi có một phân xưởng đặc biệt, sấy khô, xát vỏ rồi rang chín, thành một sản phẩm giống như mì ăn liền của Nhật Bản, có thể ăn ngay như cốm cũng có thể chế nước sôi vào thành cơm thành cháo ăn ngay. Đó là một món ăn người châu Phi rất thích. Ở bên này, tôi phải mua lúa non để chế biến xuất khẩu nên giá thành rất đắt. Còn ở miền Trung Việt Nam, có một nhà máy như thế, người nông dân sẽ yên tâm không sợ bão lụt mất mùa, giá thu mua nguyên liệu sẽ rẻ hơn rất nhiều so với lúa non bên Thái, chắc chắn xuất khẩu sẽ có lợi nhuận cao... Tất nhiên, toàn bộ công việc kinh doanh ấy tôi giao hết cho vợ để mình chuyên tâm vào công việc đi dạy tiếng Việt không lương!

Người Việt mình dù ở đâu, dù thời đại nào cũng có những người dâng hiến trọn cuộc đời để dạy tiếng Việt như thầy giáo nghèo Vương Đình Chính, hay những nhà doanh nghiệp tài ba, kinh doanh thành đạt nhưng sẵn sàng giao hết mọi việc cho vợ để mình dốc tâm vào việc truyền hồn Việt cho mọi người thông qua dạy tiếng Việt như Mạnh Thường Quân Đậu Văn Khánh, như thầy giáo Nguyễn Sỹ Tưởng... để có những thế hệ học trò tài ba mang đủ mọi quốc tịch, giỏi giang tiếng Việt và thành đạt như cô Núi, như Lưu Huệ Thanh, Vũ Thị Thuỷ và nhiều người khác nữa!

Bản Nà Choọc,

Tiết Hạ Chí- Đinh Hợi

Bút ký của Bá Dũng (TP. Vinh)

Tin mới