Giải pháp điều trị loãng xương ở người cao tuổi

(Baonghean) - Loãng xương sau tuổi 40 được đặc trưng bởi sự giảm khối lượng xương và tổn thương vi cấu trúc của tổ chức xương, gây hậu quả làm xương giảm độ chắc và dễ gãy. Hiện nay trên thế giới, có khoảng 50% phụ nữ trên 50 tuổi bị loãng xương, 40% phụ nữ trên 70 tuổi bị gãy xương do loãng xương. Bởi vậy, người dân không nên chủ quan với căn bệnh này.  

Cơ sở phòng khám đa khoa Trường Đại học Y khoa Vinh sắp đưa vào vận hành mô hình bệnh viện.
Cơ sở phòng khám đa khoa Trường Đại học Y khoa Vinh sắp đưa vào vận hành mô hình bệnh viện. Ảnh: Lương Mai

Trên thế giới có khoảng 200 triệu người bị loãng xương, cứ 3 phụ nữ thì có 1 người bị loãng xương, tỷ lệ loãng xương nam giới là 1/5. Tại Việt Nam, theo số liệu khảo sát bước đầu của Viện Dinh dưỡng, bệnh loãng xương ảnh hưởng tới 1/3 phụ nữ và 1/8 đàn ông trên 50 tuổi. Ước tính tại Việt Nam số người gãy cổ xương đùi do loãng xương đến năm 2010 là 26.000 và đến năm 2030 sẽ là 41.000 người .

Loãng xương làm giảm năng suất lao động, do đó gây ảnh hưởng gián tiếp tới nền kinh tế. Ngày nay, nhờ một số phương pháp đo mật độ xương, người ta có thể đánh giá chính xác khối lượng xương, chỉ ra mức độ loãng xương, theo dõi tiến triển của bệnh và phát hiện sớm các đối tượng có nguy cơ nhằm phòng ngừa, điều trị sớm tránh được các biến chứng của loãng xương (như gãy xương, biến dạng cột sống…), giảm được tỷ lệ tử vong do loãng xương. 

Từ tháng 10/2015 đến tháng 5/2017, nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Y khoa Vinh đã tiến hành, nghiên cứu, điều tra, khám sàng lọc trên 2.065 người từ 40 tuổi trở lên tại thành phố Vinh. Đồng thời, triển khai các giải pháp dự phòng và điều trị loãng xương cho người dân. Qua điều tra khám, sàng lọc 2.065 người từ 40 tuổi trở lên ở tất cả 25 phường xã của thành phố Vinh. Kết quả cho thấy, tỷ lệ loãng xương ở người từ 40 tuổi trở lên là 39,6%, tỷ lệ giảm mật độ xương là 36%. Như vậy tỷ lệ loãng xương ở thành phố Vinh chiếm gần 40%. Nếu tính cả tỷ lệ giảm mật độ xương là 75,6%, chiếm 3/4 tổng số người tham gia nghiên cứu.

Qua nghiên cứu, cho thấy một số yếu tố nguy cơ gây loãng xương đó là tuổi, giới, đẻ nhiều con, mãn kinh, dùng thuốc cocticoid kéo dài, bổ sung không đủ can xi trong khẩu phần ăn và lười luyện tập thể dục thể thao, lạm dụng bia rượu, hút thuốc lá và mắc một số bệnh kèm theo… Trừ tuổi và giới ra, còn tất cả các yếu tố nguy cơ đều có thể thay đổi được. Chẳng hạn như người dân có thể thay đổi thói quyen hút thuốc lá, thay đổi khẩu phần ăn hàng ngày, sinh ít con, tăng cường luyện tập thể dục thể thao.

Trước nguy cơ và những biến chứng của loãng xương, chúng ta cần tăng cường các giải pháp phát hiện và điều trị kịp thời. Loãng xương đôi khi không có biểu hiện gì, khi có triệu chứng thường đó là các biến chứng của bệnh. Một số dấu hiệu thường gặp ở người từ 40 tuổi trở lên, đặc biệt là người cao tuổi và người có sử dụng cocticoid kéo dài đó là: Đau lưng, mỏi lưng, thoát vị đĩa đệm, thoái hóa khớp thắt lưng hình chêm, xẹp đốt sống gây gù vẹo cột sống và giảm chiều cao so với thời còn trẻ đến 3 - 5 cm. Để chẩn đoán loãng xương, người dân phải đến cơ sở y tế để đo mật độ xương bằng máy X quang (DXA) hoặc đo sơ bộ bằng máy đo sóng siêu âm xương gót. 

Đo huyết áp góp phần điều trị loãng xương ở người già tại Phòng khám đa khoa Trường đại học y khoa Vinh. Ảnh: Lương Mai
Đo huyết áp góp phần điều trị loãng xương ở người già tại Phòng khám đa khoa Trường Đại học Y khoa Vinh. Ảnh: Lương Mai

Đồng thời, chúng ta tăng cường các giải pháp dự phòng cấp I (phòng cho người chưa bị loãng xương) như: Người dân cần nâng cao nhận thức về hậu quả của bệnh loãng xương như gây gãy cổ xương đùi, xương cẳng tay; thay đổi hành vi như ăn uống thực phẩm giàu can xi, tăng cường vận động thể lực, tập thể dục và thể thao (trừ người suy tim), đi bộ, không hút thuốc lá, giảm rượu bia; hạn chế dùng cocticoid kéo dài khi có bệnh khớp và cần tư vấn của bác sỹ khi sử dụng thuốc. Điều trị tốt các bệnh kèm theo như tăng huyết áp, thoái hóa khớp, viêm khớp dạng thấp, bệnh phổi mãn tính, đái tháo đường, suy tim…

Đối với nhóm người giảm mật độ xương, các biện pháp thực hiện và điều trị các bệnh kèm theo giống như ở nhóm người có mật độ xương bình thường. Ngoài ra, cần phải bổ sung can xi và Vitamin D, cần bổ sung can xi bằng cách uống 2 cốc sữa có can xi/ngày, uống hàng ngày ít nhất 1 năm, bổ sung vitamin D và can xi bằng viên calcinol hoặc các chế phẩm có can xi và vitamin D.

Bên cạnh đó, tăng cường các giải pháp dự phòng cấp II (phòng cho người đã bị loãng xương) như phải đến cơ sở y tế để khám và được tư vấn dùng thuốc điều trị loãng xương. Các thuốc điều trị loãng xương hiện nay gồm loại thuốc uống như: Aledronat 10 mg mỗi ngày uống 1 viên hoặc Fosamax 70/5600 UI mỗi tuần uống 1 viên.  Loại thuốc tiêm truyền: Aclasta 5 mg/100ml mỗi năm truyền 1 lần truyền trong 3 - 5 năm. Bên cạnh đó, chúng ta cần dự phòng gãy xương bằng cách không nên vận động mạnh cột sống đặc biệt là vặn và xoay cột sống làm như vậy có thể dẫn đến thoát vị đĩa đệm, trượt đốt sống; lên xuống cầu thang hoặc bậc thềm, bậc tam cấp cẩn thận nhẹ nhàng tránh ngã gây gãy cổ xương đùi và xương cẳng tay.

Phó giáo sư, tiến sỹ: Cao Trường Sinh

(Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Y khoa Vinh)

TIN LIÊN QUAN

Tin mới