Kỷ niệm 80 năm ngày Bác Hồ về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam (28/01/1941 – 28/01/2021):

Tết năm 1941, Cao Bằng đón Người trở về Tổ quốc

(Baonghean) - Ngày 28/1/1941 (ngày mùng 2 Tết Tân Tỵ), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài.

Ngày 22/6/1940, Pháp mất nước vào tay phát xít Đức. Nắm được tin này, tại Côn Minh (Trung Quốc), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập cuộc họp Ban Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương. Người phân tích: “Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”.

Bác Hồ về nước ngày mồng 2 Tết Tân Tỵ 1941. Tranh minh họa.
Bác Hồ về nước ngày mùng 2 Tết Tân Tỵ 1941. Tranh minh họa.

Tháng 9/1940, phát xít Nhật tiến quân vào Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh phe đồng minh. Thực dân Pháp, vốn đã đầu hàng phát xít Đức, đã cúi đầu trước phát xít Nhật với thỏa thuận hợp tác cùng bóc lột nhân dân ta. Tháng 10/1940, lợi dụng nước Pháp suy yếu, Thái Lan gây chiến tranh để giành lại quyền lợi ở Lào và Campuchia. Nhân dân ta vốn khổ sở như “kiếp ngựa trâu” nay lại lâm vào kiếp “một cổ đôi tròng” và lâm vào họa làm “bia đỡ đạn” trong chiến tranh Pháp - Thái Lan nên không thể cam chịu được nữa. Do đó, khắp cả nước đã diễn ra những cuộc khởi nghĩa. Tiêu biểu nhất: Khởi nghĩa Bắc Sơn (nổ ra ở tỉnh Lạng Sơn, từ ngày 27/9 đến ngày 28/10/1940); Khởi nghĩa Nam Kỳ (nổ ra ở 20/21 tỉnh, thành phố ở Nam Kỳ, kéo dài từ ngày 22/11 đến ngày 31/12/1940); Binh biến Đô Lương (nổ ra ở tỉnh Nghệ An vào ngày 13/1/1941), là “những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu tranh đấu bằng võ lực của các dân tộc ở một nước Đông Dương”.

Đầu tháng 1/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đến làng Nậm Quang (Tĩnh Tây, Quảng Tây, Trung Quốc) tổ chức lớp huấn luyện chính trị cho 43 cán bộ cách mạng Việt Nam và chuẩn bị việc về nước. Ngày 28/1/1941 (ngày mùng 2 Tết Tân Tỵ), Người đã về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam.

Từ ngày 8/2/1941, Người ở và làm việc tại hang Cốc Bó ở xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Tại đây, Người đã đặt tên cho núi Phja Tào là núi Các Mác và con suối Khuổi Mịn là suối Lênin. Trên một chiếc bàn đá, Người đã dịch cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản (Bôn-sê-vích) Liên Xô để làm tài liệu hoạt động cho cách mạng Việt Nam. Những điều này thể hiện tư tưởng, mục tiêu, đường lối và niềm tin của Người vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam theo con đường của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.

Sau một thời gian chuẩn bị, Người triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại lán Khuổi Nặm (Pác Bó) từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941. Theo chủ trương của Người, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) để thực hiện việc đại đoàn kết toàn dân tộc chống ngoại xâm và giành lại độc lập dân tộc. Để vận động nhân dân gia nhập Việt Minh, Người đã viết rất nhiều tác phẩm như: Khuyên đồng bào mua Báo Việt Nam độc lập (1/8/1941), Mười chính sách của Việt Minh (1941), Dân cày (21/8/1941), Phụ nữ (1/9/1941), Công nhân (11/10/1941), Ca đội tự vệ, (1/2/1942), Hòn đá (21/4/1942), Lịch sử nước ta (2/1942)... Sau này, khi viết về thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, nhà sử học Pháp Philippe Devillers, trong cuốn sách “Lịch sử Việt Nam từ 1940 đến 1952” nhận định: “Nó còn là kết quả logic của Việt Minh trong mọi khu vực của đời sống đất nước”.

Công tác xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng cũng được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đặc biệt coi trọng. Những trung đội Cứu quốc quân lần lượt ra đời: Trung đội Cứu quốc quân I được thành lập vào ngày 14/2/1941, Trung đội Cứu quốc quân II được thành lập vào ngày 19/5/1941, Trung đội Cứu quốc quân III ra đời vào 5/2/1944. Bên cạnh đó, cuối năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc còn quyết định thành lập Đội tự vệ vũ trang Pác Bó để chuẩn bị cho xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và thúc đẩy cơ sở chính trị phát triển. Người còn tổ chức các lớp tập huấn chính trị, quân sự, biên soạn các tài liệu về đánh du kích, kinh nghiệm du kích Nga, kinh nghiệm du kích Tàu…

Ảnh tư liệu Bác Hồ làm việc tại khu căn cứ ở tỉnh Cao Bằng.
Bác Hồ làm việc tại khu căn cứ ở tỉnh Cao Bằng. Ảnh: Tư liệu.  

Đặc biệt, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã được Người thành lập vào ngày 22/12/1944. Sau khi ra đời, Đội đã đánh thắng liên tiếp 2 trận ở Phai Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng). Tiếp đó, Việt Nam Giải phóng quân cũng được thành lập vào ngày 15/5/1945, trên cơ sở thống nhất từ các đơn vị Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân cùng các tổ chức vũ trang cách mạng tập trung của cả nước Việt Nam. Đây chính là lực lượng sẽ làm nhiệm vụ đấu tranh vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân.  

Khi về nước vào năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái quốc đã chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa dựa trên cơ sở lực lượng chính trị được tổ chức và phát triển. Sau đó, thực hiện chỉ thị của Người, ngày 4/6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, bao gồm 2 căn cứ lớn trên địa bàn 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc ngoại vi tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái. Tân Trào được chọn là Thủ đô lâm thời của Khu giải phóng. Với 1 triệu người, gồm nhiều dân tộc khác nhau, khu giải phóng đã thực sự là “hình ảnh nước Việt Nam mới”, cùng với hệ thống các chiến khu trong cả nước tạo thành hậu phương và bàn đạp cho thế trận Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945. Trong Cách mạng Tháng Tám 1945, Đại hội đại biểu quốc dân họp tại Tân Trào cũng đã quyết định thành lập Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam do lãnh tụ Hồ Chí Minh (Nguyễn Ái Quốc) làm Chủ tịch, đồng chí Trần Huy Liệu làm Phó Chủ tịch và các Ủy viên là các đồng chí: Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Dương Đức Hiền, Chu Văn Tấn, Nguyễn Văn Xuân, Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Lê Văn Hiến, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Ngọc Thạch và ông Nguyễn Hữu Đang.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), vào ngày 29/3/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh gặp Tướng Claire Chennault -Tư lệnh Không đoàn số 14 của Mỹ, cũng là người đại diện cao nhất của đồng minh ở vùng Hoa Nam thuộc nước Trung Hoa Dân Quốc để thỏa thuận sự hợp tác chống phát xít Nhật ở Đông Dương. Theo đó, phía Việt Minh sẽ tăng cường lực lượng du kích và mở rộng phạm vi hoạt động của lực lượng này; cung cấp những thông tin tình báo và khí tượng cho không quân Mỹ hoạt động trên chiến trường chống Nhật ở miền Bắc Đông Dương; cứu các phi công đồng Minh bị nạn ở Đông Dương. Ngược lại, phía quân đồng minh có trách nhiệm đưa các phái đoàn quân sự sang giúp đỡ Việt Minh huấn luyện quân sự, đồng thời trang bị vũ khí, điện đài và các trang thiết bị khác. Đây là quyết định sáng suốt của Người vì đã tranh thủ được lực lượng đồng minh trong cuộc đấu tranh chống phát xít của dân tộc ta.

Do đó, chỉ với 5.000 đảng viên, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, lật nhào sự áp bức, bóc lột của chế độ thực dân, đế quốc và phong kiến. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cách mạng Tháng Tám đã thành công vì có được 3 điều kiện không thể thiếu được đối với bất cứ một cuộc cách mạng phản đế nào ở một nước thuộc địa; đó là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, sự thành lập một mặt trận dân tộc phản đế rộng rãi, khởi nghĩa vũ trang”.

Người thăm lại suối Lê-nin (Pác Bó – Cao Bằng) năm 1961. Ảnh: Tư liệu
Bác Hồ thăm lại suối Lê-nin (Pác Bó – Cao Bằng) năm 1961. Ảnh: Tư liệu

Như vậy, khởi điểm từ mùa Xuân Tân Tỵ năm 1941 tại Pác Bó (Cao Bằng) cho đến tháng 8/1945, Bác Hồ đã thực hiện 3 quyết sách lớn tiếp theo sau khi sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là: Sáng lập Mặt trận Dân tộc thống nhất (Việt Minh), sáng lập Lực lượng vũ trang nhân dân (Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân), sáng lập chính quyền của nhân dân (Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam).

Tin mới