Thêm hai ấn phẩm trong tủ sách 'Trăm năm Nobel'

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
(Baonghean.vn) - Tủ sách “Trăm năm Nobel” vừa tiếp tục được bổ sung thêm 2 tác phẩm “Lịch sử La Mã” của Theodor Mommsen và “Tuyển tập kịch” của Jacinto Benavente.

Ra đời vào năm 2021 với mong muốn tôn vinh những tác giả từng đoạt giải Nobel Văn học, đồng thời giới thiệu đến độc giả những tác phẩm giá trị, tủ sách “Trăm năm Nobel” vừa tiếp tục được bổ sung thêm 2 tác phẩm “Lịch sử La Mã” của Theodor Mommsen và “Tuyển tập kịch” của Jacinto Benavente.

Christian Matthias Theodor Mommsen là giáo sư người Đức, ông giảng dạy và nghiên cứu về ngành Cổ điển học, Sử học, Luật học và Khảo cổ học. Công trình đem đến cho Mommsen nhiều vinh quang nhất, chính là tác phẩm “Lịch sử La Mã”. Năm 1902, ở tuổi 85, ông được trao giải Nobel Văn học. Thông thường, giải được trao cho thành tựu trọn đời của một tác giả, nhưng Mommsen là một trong số chín khôi nguyên Nobel (tính đến năm 2022) có tác phẩm được nhắc đến để vinh danh đặc biệt, và tác phẩm đó chính là “Lịch sử La Mã”.

Hai tác phẩm mới nhất trong tủ sách “Trăm năm Nobel”.

Hai tác phẩm mới nhất trong tủ sách “Trăm năm Nobel”.

Theo dự kiến ban đầu của Theodor Mommsen, “Lịch sử La Mã” sẽ gồm 5 tập, từ khởi thủy của Roma cho đến thời Hoàng đế Diocletianus (năm 305), khi Đế quốc La Mã bị chia cắt thành hai nửa Đông và Tây. 3 tập đầu (nội dung chia thành 5 quyển) được xuất bản vào các năm 1854, 1855 và 1856, với trục thời gian kéo dài đến trận Thapsus năm 46 trước công nguyên và các cải cách của Julius Caesar. Đến năm 1885, Mommsen xuất bản quyển sách được xem là tập V của bộ “Lịch sử La Mã”, mang tên “Các tỉnh của Đế quốc La Mã từ thời Caesar đến thời Diocletianus”.

Tập IV còn thiếu, tuy không viết, nhưng Mommsen vẫn soạn nhiều bài giảng liên quan đến thời kỳ Đế quốc La Mã nhằm giảng dạy tại trường đại học và được học trò ghi chép lại. Đến năm 1992, 90 năm sau ngày Mommsen được trao giải Nobel, nhà sử học Đức Alexander Demandt cho xuất bản tập IV “phục dựng” của bộ “Lịch sử La Mã” dưới cái tên “Römische Kaisergeschichte” (“Lịch sử Đế quốc La Mã”). Bản tiếng Việt “Lịch sử La Mã” gồm 5 tập, được xuất bản lần lượt. Tập 1 (do Nguyễn Quí Hiền dịch và giới thiệu) được xuất bản trong năm nay, nội dung gồm: Quyển I: Giai đoạn từ nguyên thủy cho đến khi giải thể chế độ quân chủ, Quyển II: Giai đoạn từ khi giải thể chế độ quân chủ ở Roma cho đến thời điểm thống nhất Italia.

Jacinto Benavente (1866-1954) là nhà viết kịch, đạo diễn kịch và diễn viên kịch người Tây Ban Nha. Ông được đánh giá là kịch tác gia vĩ đại nhất của Tây Ban Nha trong thời kỳ chuyển giao giữa thế kỷ XIX và thế kỷ XX. Sinh thời, Benavente đã gây ảnh hưởng và thay đổi sâu sắc nền kịch nghệ Tây Ban Nha cả về cách viết lẫn cách trình diễn trên sân khấu. Các vở kịch của ông thống trị mọi sân khấu ở đất nước này suốt nửa thế kỷ, tài năng của ông được cả giới chuyên môn lẫn số đông quần chúng công nhận. Năm 1922, Viện Hàn lâm Thụy Điển trao cho ông giải thưởng Nobel Văn học danh giá “vì bút pháp tài tình mà qua đó ông tiếp nối truyền thống vẻ vang của nền kịch nghệ Tây Ban Nha”. Trong suốt sự nghiệp văn chương, Benavente đã viết hơn 170 vở kịch, cùng một vài tập thơ và các thể loại văn chương khác.

“Tuyển tập kịch” Jacinto Benavente gồm 5 vở: Thống đốc phu nhân, Đóa hồng giữa Thu, Những ràng buộc lợi ích, Hoàng nữ bé con, Đứa con trái duyên. 5 vở kịch trong tuyển tập này đều là các vở được sáng tác trong thời hoàng kim của ông, đặc biệt bao gồm 2 vở hay nhất là Những ràng buộc lợi ích và Đứa con trái duyên. Năm vở đều được dịch từ tiếng Anh, dựa theo tuyển tập “Plays by Jacinto Benavente”, bản dịch của John Garrett Underhill, Nhà xuất bản Charles Scribner's Sons, năm 1917; khi dịch có tham khảo nguyên tác tiếng Tây Ban Nha.

Ở đây bạn đọc sẽ thấy một Benavente thấm đẫm tư tưởng tự do, thấu hiểu tâm lý con người, và đặc biệt tôn vinh phụ nữ. Các nhân vật nữ của ông thường chiếm vai trò rất quan trọng dù lấy bối cảnh ở giới thượng lưu hay giới lao động nghèo vùng thôn quê. Hầu hết kịch của Benavente lấy bối cảnh ở giới thượng lưu, tầng lớp người đầy hào nhoáng bên ngoài nhưng mục ruỗng bên trong mà ông đã quá quen thuộc vì sống với họ từ tấm bé, cùng với địa danh quen thuộc là thành phố Madrid. Nét đặc sắc ở kịch của Benavente không những nằm ở nội dung mà còn nằm ở lời thoại và cách bộc lộ tâm lý nhân vật. Tác phẩm do Nguyễn Tuấn Linh dịch và giới thiệu, có 15 bức minh họa mới chia đều cho 5 vở kịch do họa sĩ Lê Trí vẽ với cảm hứng từ phong cách scratchboard.

Trước đó, vào năm ngoái, Công ty sách Đông A đã thực hiện bản dịch trọn vẹn tập thơ đầu tay “Thi khúc & Thi phẩm”, tác phẩm làm nên tên tuổi và địa vị văn chương của nhà thơ người Pháp Sully Prudhomme (1839-1907) trên văn đàn quốc tế, với mong muốn chuyển tải nhiều hơn nguồn thi hứng dạt dào của Sully đến với độc giả Việt Nam. Năm 1901, ông trở thành người đầu tiên được trao giải Nobel Văn học “vì những giá trị văn chương xuất sắc, chủ nghĩa lý tưởng cao cả, nghệ thuật hoàn thiện và sự kết hợp tuyệt vời giữa tình cảm và tài năng”. Tập thơ được chia làm hai phần, bao gồm 103 bài nằm ở phần đầu Thi khúc và 14 bài ở phần sau Thi phẩm. Sách được chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Pháp với bản dịch mới của Trân Châu, Đạt Nhân và Khắc Đỗ.

Cùng với “Thi khúc & Thi phẩm”, vào năm ngoái, Công ty sách Đông A cũng đã ra mắt bản dịch mới của 2 tác phẩm tiêu biểu cho 2 thời kỳ sáng tác của nhà văn Anatole France (1844-1924): “Tội ác của Sylvestre Bonnard và Đảo chim cánh cụt”. Ấn phẩm do dịch giả Trân Châu chuyển ngữ. Tiểu thuyết đầu tay “Tội ác của Sylvestre Bonnard” xuất bản năm 1881 đã mang lại thành công lớn cho France, giúp ông được biết đến ở vị thế một tiểu thuyết gia và được nhận giải thưởng của Viện Hàn lâm Pháp. Đảo chim cánh cụt được xuất bản năm 1908 đánh dấu sự thay đổi lớn trong sự nghiệp sáng tác của Anatole France. Nếu như trước đó, ông đắm chìm vào tư tưởng của bản thân, chỉ nhìn về cái đẹp ở thời quá vãng xa xôi, thì nay ông dành nhiều sự quan tâm đến vấn đề chính trị đương thời và thường xuyên hướng mũi dùi châm biếm về phía Giáo hội. Ông được trao giải Nobel Văn học năm 1921 vì “những tác phẩm văn học lỗi lạc, đặc trưng bởi phong cách cao quý, lòng thấu cảm sâu sắc, sự duyên dáng, và một tính khí đúng chất Gaule”.

Theo bà Hoài An, đại diện của Công ty sách Đông A, mỗi năm, tủ sách “Trăm năm Nobel” sẽ in một hoặc nhiều tác phẩm của tác giả được nhận giải Nobel Văn học vừa tròn 100 năm về trước, trừ ra những năm không được trao giải. “Với những tác phẩm có dung lượng đồ sộ gồm nhiều tập, chúng tôi sẽ in trước một hoặc hai tập, các tập tiếp theo sẽ ra sau. Tất cả các tác phẩm được in trong tủ sách này đều được thực hiện theo quy cách ấn bản giới hạn có đánh số, như một cách vinh danh xứng đáng dành cho những viên ngọc văn chương quý giá của nhân loại”, bà Hoài An cho biết.

Như vậy, độc giả Việt Nam sẽ lần lượt gặp lại đầy đủ các tác giả và tác phẩm mà mình yêu mến, từ Henryk Sienkiewicz đến Hermann Hesse, từ Rabindranath Tagore đến Albert Camus trong một diện mạo mới.

Giải Nobel Văn học là 1 trong 5 giải Nobel ban đầu được đặt ra theo nguyện vọng của nhà Hóa học Alfred Nobel. Kể từ lần trao giải đầu tiên vào năm 1901 đến nay, giải Nobel Văn học đã tôn vinh hơn 100 tác giả trên khắp thế giới cùng nhiều kiệt tác trong kho tàng văn chương nhân loại. Năm 2022, người được trao giải Nobel Văn học là nữ nhà văn người Pháp Annie Ernaux "vì lòng dũng cảm và sự nhạy bén mà nữ nhà văn này đã sử dụng để khám phá gốc rễ, sự bất hòa và những hạn chế của ký ức cá nhân".

Tin mới