Luật quốc tế và luật pháp quốc gia

(Baonghean) - Ngày 31/7, nghị định số 72/2013/NĐ-CP về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng chính thức được công bố. Nghị định kí bởi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 15/7 và có hiệu lực từ ngày 1/9 này. Đã có nhiều ý kiến, luồng dư luận trái chiều trong và ngoài nước xung quanh một số điều khoản của Nghị Định. Phân tích nội dung của những điều khoản đang gây tranh cãi; so sánh, quy chiếu với những bộ luật nước ngoài để thấy, có hay không một sự hiểu nhầm, một sự diễn giải chưa chính xác - vô tình hoặc cố ý - dẫn đến cái nhìn lệch lạc về chính sách và pháp luật của Nhà nước Việt Nam?

Nghị định số 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng.

Nghị định 72: Những mối quan ngại...

Những luồng thông tin phản đối chủ yếu đến từ các tổ chức báo chí, ngôn luận chính phủ hoặc phi chính phủ ngoài nước, xoay quanh 3 vấn đề sau:

Thứ nhất, BBC, AFP, Huffington Post (và một số nguồn khác) đề cập việc cá nhân sử dụng internet không được phép cung cấp thông tin tổng hợp. Cụ thể, Đài tiếng nói quốc tế Pháp (RFI) diễn giải “nôm na” và “nói cho đơn giản” là “cấm chia sẻ trên trang mạng xã hội và blog các thông tin lấy từ trang tin tức, trang báo mạng hoặc blog đưa tin” (bài “Ở Việt Nam, chính phủ tiếp tục cuộc chiến chống lại internet và các mạng xã hội” đăng ngày 6/8 trên trang web chính thức của RFI). Bài báo này cũng nhận xét một cách châm biếm rằng Nghị định 72 sẽ giới hạn trang cá nhân vào những việc như đăng “ảnh con mèo của bạn” hoặc “video âm nhạc mới của một ca sĩ đang được yêu thích” - “trên lý thuyết là như vậy”.

Thứ 2, Ủy ban bảo vệ các nhà báo (CPJ) đặt ở New York, Mỹ cho rằng “Nghị định 72 nhằm vào tự do trên mạng”. Tổ chức này đặt câu hỏi về việc Nghị định 72 yêu cầu các công ty cung cấp dịch vụ mạng tiết lộ danh tính của người vi phạm những điều khoản về ngôn luận.

Thứ 3, vẫn là CPJ với quan điểm cho rằng Nghị định 72 nhằm vào các công ty Internet trên toàn cầu như Google, Facebook,... khi yêu cầu các công ty này giới hạn nội dung đăng tải trên trang web và mạng xã hội có liên quan đến Việt Nam. Những nội dung bị cấm - theo CPJ là được Pháp luật Việt Nam quy định rất mập mờ - gồm “Chống lại Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; tuyên truyền chiến tranh, khủng bố; gây hận thù, mâu thuẫn giữa các dân tộc, sắc tộc, tôn giáo” và “Đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân” (Bài “CPJ: Nghị định 72 là “mối nguy mới’” đăng ngày 23/7 trên trang web chính thức của BBC). Trong bài “Hoa Kỳ “quan ngại” về Nghị định 72” đăng trên trang web của BBC ngày 6/8, tổ chức Liên minh Internet châu Á (AIC) do eBay, Facebook, Google và Yahoo sáng lập bày tỏ sự thất vọng: “Chúng tôi tin rằng nghị định sẽ tác động tiêu cực hệ thống internet của Việt Nam (...) Về lâu dài, nghị định sẽ bóp nghẹt sự sáng tạo và không khuyến khích doanh nghiệp hoạt động ở Việt Nam”.

Dư luận trong nước chủ yếu tập trung vào câu hỏi đầu tiên. Một số blogger như Huỳnh Ngọc Chênh - tác giả bài viết “Bà Tưng và Nghị định tưng tưng” - nhìn nhận Nghị định 72 như nòng súng chĩa thẳng vào giới blogger và tự do ngôn luận trên mạng internet. Một bộ phận cư dân mạng khác lại ủng hộ, với quan điểm: quy định trong Nghị định 72 nhằm vào vấn đề tôn trọng bản quyền.

Những ấn phẩm báo chí nước ngoài đưa thông tin lệch lạc, quy chụp và phiến diện về Nghị định 72.

...Xuất phát từ một sự hiểu nhầm?...

Cáo buộc Nghị định 72 xâm phạm đến tự do ngôn luận là không xác đáng, khi mà cách hiểu và diễn giải quy định liên quan đến việc đăng tải thông tin tổng hợp trên các trang cá nhân có nhiều bất đồng.

Ngay tiêu đề của điều luật cũng đã nói rõ ràng mục đích của nó: Phân loại. Có lẽ sẽ rất khó để diễn giải từ “phân loại” thành “cấm đoán” như một số luồng ý kiến phản đối! Cụ thể hơn, trong buổi họp báo ngày 31/7 do Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức, Thứ trưởng Lê Nam Thắng phát biểu: “Những thông tin tổng hợp, thông tin chính thức của các cơ quan báo chí còn liên quan đến vấn đề bản quyền, vấn đề của cơ quan báo chí, không thể lấy từ chỗ này đặt sang chỗ kia được, mà phải trích dẫn, xin phép, đồng ý. Hay, thông tin của các cơ quan Đảng, Nhà nước hoặc của các tổ chức, không thể lấy đưa lên rồi làm thành tin tức của mình được. Đấy là quy định chung về Luật Dân sự và quy định của pháp luật về Luật Sở hữu trí tuệ”.

Như vậy, bản thân các quy định của Nghị định 72 không sai nếu xét về quyền tự do ngôn luận, mà chỉ bất cập ở chỗ sử dụng ngôn từ chưa rõ ràng, khiến người đọc không chắc chắn hiểu như thế nào mới đúng. Quả thật, trong Chương 1, Điều 3: Giải thích từ ngữ, Khoản 19 viết “Thông tin tổng hợp là thông tin được tổng hợp từ nhiều nguồn thông tin, nhiều loại hình thông tin về một hoặc nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội”. Cách hiểu đúng ở đây về thông tin tổng hợp phải là thông tin được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn được cơ quan chức năng công nhận về quyền và chức năng tổng hợp, đưa tin tức. Như vậy, khi nói “trang thông tin điện tử cá nhân không cung cấp thông tin tổng hợp”, phải hiểu là trang thông tin điện tử cá nhân không được trích dẫn, bê nguyên thông tin, bài viết từ một nguồn khác để đăng tải trên trang cá nhân của mình. Quy định này nhằm kiểm soát 2 hiện tượng phổ biến trong cộng đồng mạng Việt Nam:

Chương 3, điều 20: Phân loại trang thông tin điện tử
(...) Khoản 4: Trang thông tin điện tử cá nhân là trang thông tin điện tử do cá nhân thiết lập hoặc thiết lập thông qua việc sử dụng dịch vụ mạng xã hội để cung cấp, trao đổi thông tin của chính cá nhân đó, không đại diện cho tổ chức hoặc cá nhân khác và không cung cấp thông tin tổng hợp.

Thứ nhất, nhiều trang cá nhân sử dụng thông tin tổng hợp mà không xin phép hoặc ghi rõ nguồn để thu hút người theo dõi (“câu view”), thu lợi nhuận. Điều này vi phạm nghiêm trọng Luật Sở hữu trí tuệ. Một người sử dụng internet văn minh và đúng pháp luật phải tôn trọng bản quyền của “tài sản ảo” trên internet, nếu chia sẻ thông tin phải trích dẫn liên kết nguồn thay vì trích dẫn nguyên văn thông tin. Vấn đề về bản quyền thông tin nói riêng và bản quyền sở hữu trí tuệ nói chung không hề mới mẻ với cộng đồng mạng trong và ngoài nước. Thậm chí các nước trên thế giới còn kiểm soát ráo riết hơn Việt Nam nhiều, đơn cử như năm 2009, bà Jammie Thomas-Rasset (Minnesota, Mỹ) bị phạt tới 1,9 triệu đô la chỉ vì tải bất hợp pháp 24 bài hát! (tin từ CNN).

Thứ 2, cung cấp thông tin không phải là chức năng và nghĩa vụ của cá nhân sử dụng internet mà của các cơ quan ngôn luận, báo chí hoặc cơ quan được sự cho phép của luật pháp. Mỗi thông tin được đăng tải một cách hợp pháp đều thuộc về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức đăng tải nó. Sự kiểm soát này là cần thiết để tránh tình trạng giả mạo trang thông tin, xuyên tạc sự thật nhằm mục đích “câu view” hay động cơ tư thù cá nhân, động cơ chính trị,...

Đối với những trang báo mạng đưa ra thông tin và nhận xét có phần phiến diện (thậm chí là lệch lạc) về Nghị định 72, liệu có quá vội vàng khi đưa ra những khẳng định mang tính quy chụp thay vì đặt câu hỏi về những điều mình chưa hiểu rõ? Hiển nhiên, một tổ chức, cơ quan báo chí chính thống sẽ phải chịu trách nhiệm với những thông tin mình đưa ra và hiểu rõ hơn ai hết: tự do ngôn luận nhưng phải khách quan, đúng sự thật! 

...Hay sự luồn lách luật pháp qua “biên giới ảo”?

Các quy định nhắm tới các doanh nghiệp, công ty nước ngoài trong Nghị định 72 chẳng khác nào “hung tin” với các đối tượng này, khi mà từ trước đến nay khâu quản lý, kiểm soát của Việt Nam đối với các đơn vị cung cấp dịch vụ nước ngoài còn lỏng lẻo.

Đơn cử như Google, công cụ tìm kiếm được ưa chuộng hàng đầu Việt Nam hay Facebook, trang mạng xã hội thịnh hành nhất cả nước (vượt mặt Zing - một mạng xã hội do Việt Nam phát triển). Những công ty này thu được lợi nhuận khổng lồ nhờ quảng cáo ở Việt Nam nhưng chưa từng phải đóng một đồng thuế nào. Sự bất công này rõ ràng ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh nghiệp, công ty trong nước vốn đã yếu thế hơn về sức ảnh hưởng trên toàn cầu. Nếu như luật pháp Việt Nam trước đây không đề cập đến việc kiểm soát các công ty cung cấp dịch vụ ở nước ngoài (hoặc có nhưng chưa triệt để), không có nghĩa là các công ty này không cần chịu sự kiểm soát của pháp luật Việt Nam, hoặc giả Việt Nam đang “gây khó dễ” bằng những quy định mới. Trước kỉ nguyên internet, pháp luật Việt Nam chỉ kiểm soát các tổ chức hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam thì rõ ràng, khái niệm về “lãnh thổ trong tầm kiểm soát” ngày nay đã được internet mở rộng hơn, trừu tượng hơn và tất nhiên là... khó kiểm soát hơn.

Tuân thủ pháp luật trở thành một câu hỏi gây tranh cãi khi mà những dịch vụ như Facebook đang được sử dụng phổ biến trên khắp thế giới. Với danh nghĩa là một công ty của Mỹ, Facebook chịu sự kiểm soát và phải tuân thủ pháp luật Mỹ, nhưng điều đó có đồng nghĩa với việc “qua mặt” hàng rào pháp lý của các quốc gia mà Facebook “vươn vòi bạch tuộc”?

Yêu cầu của quốc gia sở tại đối với các dịch vụ, công ty, doanh nghiệp nước ngoài như trên không phải là không có tiền lệ. Năm 2000, Toà án Pháp yêu cầu Yahoo! phải đảm bảo những người dùng tại Pháp không thể truy cập vào đường dẫn trên trang web của Yahoo! cho phép mua cuốn sách viết về những hồi ức phát xít. Trong khi đó, công ty con của Yahoo! tại Đức bị cảnh sát Đức điều tra vì rao bán cuốn sách “Mein Kampf” của Adolf Hitler (tin từ CNN).

Xét thấy, Nhà nước Việt Nam hoàn toàn có lý khi yêu cầu các công ty, doanh nghiệp nước ngoài cung cấp dịch vụ, thông tin đến với người dùng tại Việt Nam phải tuân thủ pháp luật Việt Nam, trong đó có cả các doanh nghiệp phát hành Game o­nline. Như vậy, việc một số người cho rằng Nghị định 72 nhằm vào các mạng xã hội như Facebook chỉ là ngộ nhận. Có hay không yếu tố quy chụp, thổi phồng, xuyên tạc thì tạm thời chưa xét đến. Có điều, không thể không công nhận rằng nội dung quy định về các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng trong và ngoài nước thể hiện một sự nỗ lực vượt bậc của Nhà nước nhằm tạo hành lang pháp luật một cách công khai, minh bạch. So với Nghị định 97 - Nghị định quản lý cũ về cung cấp dịch vụ Internet, Nghị định 72 cho thấy sự mở rộng phạm vi ảnh hưởng của luật pháp để thích nghi kịp thời với những thay đổi của xã hội. Đây chính là mấu chốt để thực hiện được quá trình hội nhập nhanh, sâu, rộng nhưng bài bản và có kiểm soát, tránh tình trạng xâm phạm “biên giới ảo”.

Luật quốc tế và luật pháp quốc gia: Phép vua, lệ làng

Trên thế giới, hiện có 192 quốc gia thuộc Liên Hợp Quốc (chưa kể các quốc gia không được công nhận và các vùng lãnh thổ). Thống nhất luật pháp các quốc gia thành một bộ luật duy nhất, được công nhận là chuẩn mực tuyệt đối là một nhiệm vụ bất khả thi. Vả lại, ai chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ này? Tất nhiên, khi thế giới đang tiến tới xu hướng “cộng sinh” - cùng sống, cùng phát triển - thì việc đạt được thoả thuận, nhất trí quan điểm trong một số vấn đề là cần thiết. Đó chính là lý do ra đời của luật quốc tế nhằm dung hoà quan hệ và tranh chấp quyền lợi giữa con người với con người. Đơn cử như vấn đề trên biển Đông hiện đang được các bên liên quan căn cứ vào Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển để đàm phán.

Tuy nhiên, những điều luật toàn cầu trên chỉ mang tính tương đối ít nhiều và không thể thay thế, áp đặt rập khuôn cho mỗi quốc gia. Luật pháp do con người đặt ra để điều hoà, kiểm soát hành vi của mình. Mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng lại có lối sống, tập quán sinh hoạt riêng. Ví dụ, luật pháp của một xã hội mẫu hệ chắc chắn sẽ khác luật pháp của một xã hội phụ hệ, hoặc ở các đất nước Hồi giáo chế độ đa thê được luật pháp công nhận thì lại bị cấm ở Việt Nam, v.v và v.v.

Vậy có nên quy chụp cho một quốc gia là vi phạm nhân quyền, vi phạm luật quốc tế khi mà những luồng quan điểm du nhập từ ngoài chưa chắc đã phổ biến, giao thoa với phong tục tập quán và được quốc gia sở tại đón nhận? Nói nào ngay hôn nhân đồng tính đang là một chủ đề nóng tại các quốc gia phương Tây, người thì nói nhân danh nhân quyền, người thì nói bảo vệ các giá trị truyền thống, tôn giáo. Thậm chí ở Mỹ, đất nước nối tiếng về sự tự do, 30 tiểu bang vẫn cấm hôn nhân đồng tính.

Chương 3, Điều 22: Cung cấp thông tin công cộng qua biên giới
Khoản 1: Các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài khi cung cấp thông tin công cộng qua biên giới có người sử dụng tại Việt Nam hoặc có truy cập từ Việt Nam cần tuân thủ các quy định của pháp luật liên quan đến Việt Nam.

Nói như vậy không phải để so sánh, kèn cựa nước nào hơn nước nào mà để hiểu sự đa dạng và khác biệt trong luật pháp các quốc gia là tất yếu và là sự thật mà ta phải chấp nhận. Về những quy định cấm của nhà nước Việt Nam đối với các hành vi “Chống lại Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; tuyên truyền chiến tranh, khủng bố; gây hận thù, mâu thuẫn giữa các dân tộc, sắc tộc, tôn giáo” và “Đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân”, thực ra đã tồn tại những quy định tương tự ở các quốc gia khác.

Năm 2000, Toà án dân sự tối cao Đức Bundesgerichtshof kết án Gerhard Lauck vì đã viết bài cho trang web của Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa Đức, một tổ chức theo chủ nghĩa phát xít hoạt động tại Mỹ. Mặc dù không vi phạm luật pháp Mỹ nhưng việc những người Đức nhận được email tuyên tuyền cho chủ nghĩa phát xít từ trang web trên đã khiến Lauck bị kết án tù bởi Toà án Đức. Đáp lại những cáo buộc vi phạm quyền tự do ngôn luận, người phát ngôn của Cơ quan điều tra hình sự liên bang Đức (Verfassungsschutz) Hans-Gertz Lange lập luận: “Khái niệm về tự do ngôn luận của họ (Mỹ và Canada) gắn liền với lịch sử của họ; luật pháp bài xích tuyên truyền gây hận thù sắc tộc của chúng tôi gắn liền với lịch sử của chúng tôi” (tin từ CNN). Dưới một cách nhìn nào đó, sự khác biệt của khái niệm tự do ngôn luận nói riêng và các khái niệm khác nói chung ở những quốc gia khác nhau phụ thuộc nhiều vào phông nền văn hoá - lịch sử.

Kết lại, có thoả đáng hay không khi nhìn nhận và đánh giá luật pháp Việt Nam bằng những hệ tiêu chuẩn nước ngoài, khi mà bối cảnh lịch sử, tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục của Việt Nam không hoàn toàn giống? Chưa kể, Việt Nam đã chính thức tham gia vào Liên Hợp Quốc từ năm 1977, thiết lập quan hệ đối tác với nhiều quốc gia trên thế giới mà mới đây nhất là quan hệ đối tác toàn diện với Mỹ. Điều này chứng tỏ Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nhà nước được quốc tế công nhận. Nếu Việt Nam thực sự vi phạm các Công ước và Luật quốc tế đã kí kết, chức năng thẩm định thuộc về các cơ quan, tổ chức quốc tế có thẩm quyền. Thiết nghĩ các tổ chức, cơ quan ngôn luận nên có sự khách quan và tôn trọng tối thiểu, không đưa thông tin mù mờ, thậm chí sẽ phải chịu trách nhiệm về việc đã khiến người đọc hiểu sai về luật pháp Việt Nam.

Hải Triều

Tin mới