Quý I/2023, nhu cầu tiêu thụ vàng của người Việt giảm 12%; Giá gạo xuất khẩu tăng 5 USD/tấn

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
(Baonghean.vn) - Quý I/2023, nhu cầu tiêu thụ vàng của người Việt giảm 12%;  Nguồn cung giảm, giá tiêu tăng thêm 1.000 đồng/kg... là những thông tin về tình hình thị trường hôm nay (9/5).

Quý I/2023, nhu cầu tiêu thụ vàng của người Việt giảm 12%

Số liệu thống kê của Hội đồng vàng thế giới cho thấy, quý I/2023, nhu cầu tiêu thụ vàng của người Việt đã giảm 12% so với cùng kỳ, từ 19,6 tấn xuống 17,2 tấn.

Báo cáo xu hướng nhu cầu vàng mới nhất của Hội đồng vàng thế giới (WGC) cho thấy, nhu cầu tiêu thụ vàng toàn cầu (không bao gồm thị trường OTC) thấp hơn 13% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, sự phục hồi của thị trường OTC đã nâng tổng nhu cầu vàng lên 1.174 tấn, tăng nhẹ 1% so với quý I/2022.

Quý I, nhu cầu tiêu thụ vàng của Việt Nam đã giảm đi 12%, chỉ còn 17,2 tấn. Ảnh: Việt Phương

Quý I, nhu cầu tiêu thụ vàng của Việt Nam đã giảm đi 12%, chỉ còn 17,2 tấn. Ảnh: Việt Phương

Tại Việt Nam, từ 19,6 tấn trong quý I/2022, nhu cầu tiêu thụ vàng đã giảm đi 12%, chỉ còn 17,2 tấn. Tương tự, nhu cầu vàng thỏi và xu vàng cũng có sự suy giảm, từ 14 tấn trong quý I/2022 giảm xuống 10%, còn 12,6 tấn trong quý I/2023. Trong khi đó, nhu cầu trang sức giảm 18% so với cùng kỳ năm 2022, từ 5,6 tấn xuống còn 4,6 tấn trong quý I/ 2023.

Giải thích cho hiện tượng trên, ông Shaokai Fan, Giám đốc điều hành khu vực châu Á - Thái Bình Dương (không bao gồm Trung Quốc) đồng thời là Giám đốc Toàn cầu về Ngân hàng Trung ương của Hội đồng vàng thế giới (WGC) cho biết: Sự suy giảm nhu cầu trang sức vàng một phần do tác động từ hiệu ứng cơ số (strong base effects). Quý I/2022 được nhìn nhận là quý có nhu cầu mua vàng trang sức trong nước mạnh nhất kể từ năm 2007. Việc mua trữ vàng trang sức trong quý I/2023 ghi nhận những dấu hiệu tích cực trong dịp Tết Nguyên đán, trước khi giảm dần vào tháng 2 và tháng 3 do giá vàng tăng.

Cùng với việc giá vàng gần đạt mức cao kỷ lục trung bình trong quý là 1.890 USD/lượng, diễn biến phức tạp của vàng trong quý I thể hiện rõ sự đa dạng và tính toàn cầu của nhu cầu vàng.

Các Ngân hàng Trung ương góp phần kích cầu bằng cách bổ sung 228 tấn vào các dự trữ toàn cầu, đạt mức kỷ lục trong dữ liệu thống kê quý I. Việc mua vàng liên tục với số lượng lớn từ các Cơ quan Chính phủ nhấn mạnh vai trò của vàng trong danh mục dự trữ ngoại hối trong thời gian biến động thị trường và rủi ro tăng cao.

Trong khi đó, lượng vàng trang sức toàn cầu trong quý I duy trì ở mức ổn định với 478 tấn.

Nguồn cung giảm, giá tiêu tăng thêm 1.000 đồng/kg

Giá tiêu hôm nay 9/5 tại thị trường trong nước tiếp tục điều chỉnh tăng 1.000 đồng/kg. Hiện giá tiêu tại các vùng trọng điểm đều đã vượt mốc 72.000 đồng/kg và dao động quanh mốc 72.000 - 75.000 đồng/kg.

Theo đó, tại khu vực Tây Nguyên, giá tiêu hôm nay dao động quanh mức 72.000 - 73.000 đồng/kg. Cụ thể, tại Gia Lai, giá tiêu hôm nay được thương lái thu mua ở mức 72.000 đồng/kg, tăng 1.000 đồng/kg. Tại tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, giá tiêu hôm nay cũng tăng 1.000 đồng/kg lên mức 73.000 đồng/kg.

Tương tự, tại Đông Nam Bộ, giá tiêu hôm nay cũng điều chỉnh tăng 1.000 đồng/kg. Hiện giá tiêu hôm nay tại Bà Rịa Vũng Tàu đang được thương lái thu mua ở mức 75.000 đồng/kg, tăng 1.000 đồng/kg. Tại Đồng Nai giá tiêu cũng tăng 1.000 đồng/kg lên mức 74.000 đồng/kg; tại Bình Phước, giá tiêu hôm nay ở mức 74.000 đồng/kg, tăng 1.000 đồng/kg.

Như vậy, giá tiêu hôm nay đã tăng 1.000 đồng/kg so với hôm qua. So với đầu tháng 5, giá tiêu trong nước đã tăng 5.500 đồng/kg so với tuần trước và vượt mốc 72.000 đồng/kg tại tất cả các địa phương. Thị trường hồ tiêu giao dịch sôi động.

Giá tiêu đen Việt Nam giao dịch ở 3.500 USD/tấn với loại 500g/l; loại 550g/l mức 3.600 USD/tấn; giá tiêu trắng ở mức 5.000 USD/tấn.
Giá tiêu đen Việt Nam giao dịch ở 3.500 USD/tấn với loại 500g/l; loại 550g/l mức 3.600 USD/tấn; giá tiêu trắng ở mức 5.000 USD/tấn.

Các chuyên gia nhận định, lực tăng của thị trường từ sau kỳ nghỉ lễ đến từ yếu tố thời tiết. Nắng nóng gay gắt tuần qua trên cả nước, nhất là các trồng trồng trọng điểm là Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, khiến giá cả các mặt hàng nông sản tăng cao, nhất hồ tiêu.

Nắng nóng khiến những lo ngại về sản lượng vụ mới gia tăng, ảnh hưởng đến nguồn cung trong dài hạn. Nhiều địa phương đã lên tiếng cảnh báo về việc năm nay có thể ra hoa muộn, khiến vụ thu hoạch năm sau bị ảnh hưởng về thời gian và sản lượng.

Nếu có El Nino vào nửa cuối năm 2023, sẽ là nguyên nhân khiến thị trường hàng hóa tăng giá. Ngoài ra hồ tiêu đang được hỗ trợ bởi thông tin sản lượng các nước sắp vào vụ thu hoạch dự báo giảm. Tổng sản lượng hồ tiêu toàn cầu 2023 ước đạt 526 ngàn tấn so với 537,6 ngàn tấn của năm 2022.

Các doanh nghiệp xuất khẩu tích cực mua nguyên liệu để bổ sung hàng tồn kho, trong khi đó nguồn cung trong nước suy giảm. Điều này khiến giá tiêu liên tục tăng cao. Tuy vậy, lượng tiêu nguyên liệu đưa ra thị trường khá ít do nông dân và các nhà đại lý kỳ vọng giá tiêu sẽ tăng trong thời gian tới.

Giá cà phê trong nước gần cán mốc 54.000 đồng/kg

Giá cà phê trong nước hôm nay (9/5), tại các tỉnh khu vực Tây Nguyên duy trì mức ổn định, có nơi tăng nhẹ 100 đồng/kg.

Cụ thể, giá cà phê nhân xô (cà phê nhân, cà phê nhân tươi) tại tỉnh Lâm Đồng tăng nhẹ 100 đồng/kg, các huyện như Bảo Lộc, Di Linh, Lâm Hà cà phê được thu mua với giá từ 53.200 - 53.300 đồng/kg.

Giá cà phê tại tỉnh Gia Lai, tỉnh Kon Tum đứng ở mức giá 53.800 đồng/kg.

Tại tỉnh Đắk Nông, cà phê được thu mua với giá 53.900 đồng/kg.

Giá cà phê hôm nay tại tỉnh Đắk Lắk hôm nay đi ngang, tại huyện Cư M'gar giá cà phê hiện ở mức 53.800 đồng/kg. Còn tại huyện Ea H'leo, thị xã Buôn Hồ được thu mua cùng mức 53.900 đồng/kg.

Đối với giá cà phê thế giới, giá cà phê tiếp tục duy trì tăng điểm.

Giá cà phê toàn cầu hiện ở mức cao.
Giá cà phê toàn cầu hiện ở mức cao.

Ở phiên giao dịch gần nhất trước thời điểm mở cửa ngày 8/5, giá cà phê Robusta trên sàn London (Anh) dao động từ 2.405 - 2.496 USD/tấn tùy kỳ hạn giao hàng. Trong đó, cà phê giao tháng 7/2023 đạt 2.496 USD/tấn; giao tháng 9/2023 đạt 2.465 USD/tấn; giao cà phê tháng 11/2023 đạt 2.425 USD/tấn và giao cà phê tháng 01/2024 đạt 2.405 USD/tấn.

Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cà phê của Việt Nam tính từ đầu năm 2023 đến ngày 15/4/2023 ở mức 634.032 tấn, thấp hơn so với mức 662.816 tấn của cùng kỳ năm trước. Điều này diễn ra trong bối cảnh giá cà phê toàn cầu ở mức cao đã góp phần đẩy giá cà phê Việt Nam tăng lên mức 52.000 VNĐ/kg, mức cao lịch sử, thống kê từ giacaphe.com.

Giá gạo xuất khẩu tăng 5 USD/tấn

Giá lúa gạo hôm nay 9/5 tại Đồng bằng sông Cửu Long điều chỉnh trái chiều giữa các mặt hàng lúa gạo. Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu tăng 5 USD/tấn

Theo đó, tại kho An Giang, lúa IR 504 đang được thương lái thu mua ở mức 6.200 - 6.300 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg; lúa OM 5451 giảm 100 đồng/kg xuống còn 6.300 - 6.400 đồng/kg.

Với các chủng loại còn lại, giá lúa duy trì ổn định. Theo đó tại kho An Giang, lúa Đài thơm 8 đang được thương lái thu mua ở mức 6.600 - 6.800 đồng/kg; lúa OM 18 đang được thương lái thu mua ở mức 6.400 - 6.500 đồng/kg; Nàng hoa 9 6.600 - 6.750 đồng/kg; lúa Nhật 7.800 - 8.000 đồng/kg; Nếp khô Long An 8.600 - 8.800 đồng/kg, nếp khô An Giang giá dao động 8.000 - 8.200 đồng/kg và lúa IR 504 khô duy trì ở mức 6.500 đồng/kg.

Nhờ liên kết với doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm lúa gạo nên nhiều xã viên HTX ở xã Nam Cát (Nam Đàn) không lo đầu ra sản phẩm. Ảnh: Việt Phương
Nhờ liên kết với doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm lúa gạo nên nhiều xã viên HTX ở xã Nam Cát (Nam Đàn) không lo đầu ra sản phẩm. Ảnh: Việt Phương

Với mặt hàng gạo, giá gạo nguyên liệu, thành phẩm điều chỉnh tăng 50 đồng/kg. Theo đó, giá gạo nguyên liệu IR 504 hè thu ở mức 9.700 đồng/kg; gạo nguyên liệu IR 504 đông xuân tăng 50 đồng/kg lên mức 9.800 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 tăng 50 đồng/kg lên mức 11.000 đồng/kg.

Với mặt hàng phụ phẩm, giá phụ phẩm duy trì ổn định. Theo đó, tấm IR 504 ở mức 9.200 đồng/kg; cám khô dao động quanh mốc 7.350 - 7.450 đồng/kg.

Tại chợ lẻ, giá gạo duy trì ổn định sau phiên điều chỉnh. Theo đó, gạo thường còn 11.000 - 12.000 đồng/kg; gạo thơm Jasmine 14.000 - 15.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 15.000 đồng/kg; nếp ruột 16.000 - 18.000 đồng/kg; Gạo Nàng Nhen 22.000 đồng/kg; Gạo trắng thông dụng 14.500 đồng/kg; Nàng Hoa 18.500 đồng/kg; Sóc Thái 18.000 đồng/kg; Gạo thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg; Gạo Nhật 22.000 đồng/kg; Cám 7.500 - 8.000 đồng/kg; Gạo thơm Thái hạt dài duy trì 18.000 - 19.000 đồng/kg và Hương Lài 19.000 đồng/kg.

Theo các thương lái, đầu tuần lượng gạo nguyên liệu về ít, giá gạo các loại có xu hướng tăng. Nhu cầu hỏi mua gạo IR 504 nhiều, giá cao. Giá lúa không có biến động, nhu cầu lúa khô vẫn tốt, nhiều kho gạo chợ cho giá lúa khô vẫn tốt.

Trên thị trường xuất khẩu, theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá gạo xuất khẩu 5% tấm của Việt Nam ở mức 488 USD/tấn, tăng 5 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 468 USD/tấn, tăng 5 USD/tấn; gạo Jasmine ở mức 553-557 USD/tấn.

Tin mới