Gạo Việt phải phụ thuộc bao bì nước ngoài để vào siêu thị?

Hiện chưa có thương hiệu gạo mang tên Việt Nam vì gạo Việt Nam chủ yếu đóng bao và mang nhãn hàng của doanh nghiệp hay quốc gia nhập khẩu.
Tại Diễn đàn chính sách nông nghiệp thường niên 2015, TS.Đào Thế Anh (Phó Viện trưởng Viện Cây lương thực – Cây thực phẩm) nêu thực trạng đáng buồn cho hạt gạo Việt. Đó là, Việt Nam xuất khẩu gạo tới trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ,  nhưng hiện vẫn chưa có thương hiệu gạo mang tên Việt Nam. Gạo Việt Nam chủ yếu đóng bao và mang nhãn hàng của doanh nghiệp hay quốc gia nhập khẩu. Thậm chí, ngay tại thị trường trong nước, gạo Việt Nam bị đánh giá thấp hơn gạo nhập khẩu từ Thái Lan, Camphuchia, Đài loan, Nhật Bản…
Nông dân Việt Nam làm ra nhiều lúa gạo nhưng lợi nhuận thu được chưa nhiều (Ảnh minh họa)
Nông dân Việt Nam làm ra nhiều lúa gạo nhưng lợi nhuận thu được chưa nhiều (Ảnh minh họa)
Thực tế này dẫn đến hiện tượng “gạo sản xuất ở Việt Nam nhưng sử dụng bao bì nước ngoài bán trong các siêu thị. Rất ít thương hiệu gạo Việt Nam được người tiêu dùng biết đến. Thị trường gạo xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là Trung Quốc (35% thị phần trong 8 tháng đầu năm 2015) luôn chứa đựng nhiều bất ổn và không dự báo được”.
Gạo Việt yếu trong chuỗi giá trị toàn cầu
TS. Đào Thế Anh chỉ ra rằng, trong khi Thái Lan, Myanmar và Campuchia đã ký được hợp đồng cấp Chính phủ (G2G) nên tiêu thụ dễ hơn, còn Việt Nam tiếp tục giao thương qua dạng tiểu ngạch. Gạo Việt Nam cũng kém cạnh tranh về giá so với nhiều nước. Năm 2014, Việt Nam xuất khẩu gạo thơm nhiều nhất (800.000 tấn) với giá trung bình 600 USD/tấn, trong khi giá gạo Hom Mali của Thái Lan 1.065- 1.075 USD/tấn và Basmati của Ấn Độ 1.515-1.525 USD/tấn.
Những con số này cho thấy rõ rằng, mức độ tham gia của gạo Việt Nam vào chuỗi giá trị toàn cầu yếu, ở mức trung bình và thấp, gạo chất lượng cao chiếm tỷ trọng thấp, chưa theo kịp nhu cầu về chất lượng của thị trường nhập khẩu,...
Một trong những nguyên nhân quan trọng, theo TS. Đào Thế Anh, mặc dù Việt Nam có nhiều giống lúa bản địa có chất lượng cao, nhưng gạo Việt Nam không được sản xuất theo quy trình hữu cơ, hay sử dụng giống bản địa có hỗ trợ của thương hiệu quốc gia như Thái lan, ...
Vì vậy, “để thương hiệu gạo Quốc gia có hiệu quả cần có nghiên cứu một cách nghiêm túc về sở thích tiêu dùng của thị trường gạo thế giới và trong nước. Thương hiệu gạo Việt Nam phải bắt đầu từ thị trường, từ nhu cầu người tiêu dùng, từ các yếu tố tác động đến hoạt động sản xuất và thương mại, từ tình hình cạnh tranh”.
Sản xuất phải từ nhu cầu thị trường
Hiện tại, hệ thống tiêu chuẩn gạo Việt Nam đã quá lỗi thời và không đáp ứng được các thay đổi trên thị trường thế giới. Dẫn kinh nghiệm của Pakistan, TS. Anh cho hay, họ xây dựng tiêu chuẩn chi tiết cho tất cả các loại sản phẩm gạo của họ có thể sản xuất, thậm chí thích ứng với từng nước nhập khẩu, tất cả đều được công khai trên trang web.
Do đó, việc Việt Nam xây dựng được thương hiệu quốc gia cho gạo của mình sẽ nhằm giúp gạo Việt xuất khẩu với giá trị cao và có chỗ đứng vững vàng ở thị trường thế giới nhưng nó không làm thay vai trò của thương hiệu vùng như Chỉ dẫn địa lý hay của doanh nghiệp, HTX. Thương hiệu Gạo Việt Nam góp phần tăng sự nổi tiếng, hỗ trợ cho các thương hiệu của doanh nghiệp, của vùng thâm nhập thị trường thế giới, như kinh nghiệm của Thái lan.
“Có lẽ bản sắc của thương hiệu gạo Quốc gia Việt Nam phải dựa trên tập hợp phong phú và đa dạng về chất lượng của các sản phẩm gạo bản địa kèm theo một hệ thống kiểm soát chất lượng tốt từ trung ương đến địa phương và dọc theo chuỗi giá trị. Đây là điều mà Thái lan và Campuchia chưa có được”- TS. Anh khuyến nghị.
Theo VOV.VN 
TIN LIÊN QUAN

Tin mới