Lúa Đông Xuân cạn nguồn, giá tăng 100 - 300 đồng/kg; Giá thép trong nước lại giảm sâu

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
(Baonghean.vn) - Lúa Đông Xuân cạn nguồn, giá tăng 100 - 300 đồng/kg; Giá thép trong nước lại giảm sâu; 70 vùng trồng, 13 cơ sở đóng gói khoai lang được phép xuất sang Trung Quốc... là những thông tin về thị trường hôm nay.

* Giá thép trong nước lại giảm sâu 720.000 đồng/tấn

Hôm nay 14/4, ghi nhận giá thép trong nước giảm sâu đến 720.000 đồng/tấn. Trước đó, giá thép đã có phiên giảm 310.000 đồng/tấn vào ngày 8/4.

Giá thép hôm nay giao tháng 10/2023 trên Sàn giao dịch Thượng Hải giảm 33 Nhân dân tệ xuống mức 3.881 nhân dân tệ/tấn.

Giá thép giao kỳ hạn giao dịch nhiều nhất tháng 5/2023 hạ 33 Nhân dân tệ, xuống mức 3.939 Nhân dân tệ/tấn.

Hôm nay, giá thép trong nước giảm sâu đến 720.000 đồng/tấn.

Hôm nay, giá thép trong nước giảm sâu đến 720.000 đồng/tấn.

Theo SteelOnline.vn, thương hiệu thép Hòa Phát điều chỉnh giảm giá bán dòng thép cuộn CB240 thêm 460 đồng, hiện ở mức 15.200 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 giảm 310 đồng, có giá 15.580 đồng/kg.

Theo đó, thép Hòa Phát tại khu vực miền Bắc hạ 460.000 đồng/tấn đối với thép cuộn CB240 xuống còn 15,2 triệu đồng/tấn, tương đương giảm 3%. Thép cây D10 CB300 là 15,58 triệu đồng/tấn, giảm 310.000 đồng/tấn, tương đương 2%.

Trong khi đó, Pomina giảm 640.000 đồng/tấn đối với CB240 xuống còn 16,93 triệu đồng/tấn và thép cây giảm 720.000 đồng/tấn xuống còn 16,88 triệu đồng/tấn, tương đương giảm lần lượt 3,6-4%.

Việt Ý thông báo mức giảm giá ít hơn so với hai thương hiệu trên. CB240 của Việt Ý là 15,3 triệu đồng/tấn, giảm 300.000 đồng/tấn, tương đương 2%. Thép cây D10 CB300 giảm 150.000 đồng/tấn xuống còn 15,4 triệu đồng/tấn.

* Thế giới tiếp đà tăng phi mã, vàng SJC hiện ở mốc 67,1 triệu đồng

Giá vàng hôm nay 14/4, giá vàng trong nước tăng nhẹ trở lại, với giá vàng JSC hiện đang ở mức 67,10 triệu đồng/lượng (bán ra).

Tại thời điểm khảo sát lúc 5h00 ngày 14/4, trên sàn giao dịch của Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn SJC, vàng SJC đang là 66,50 triệu đồng/lượng mua vào và 67,10 triệu đồng/lượng bán ra.

Giá vàng trong nước vẫn cao hơn thế giới.

Giá vàng trong nước vẫn cao hơn thế giới.

Còn tại Công ty Vàng bạc đá quý Phú Quý, thời điểm khảo sát niêm yết giá vàng SJC ở mức 66,50 – 67,10 triệu đồng/lượng (mua vào - bán ra).

Giá vàng 9999 được DOJI được niêm yết ở mức 66,50 triệu đồng/lượng mua vào và 67,05 triệu đồng/lượng bán ra.

Giá vàng Vietinbank Gold đang niêm yết ở mức 66,50 triệu đồng/lượng mua vào và 67,12 triệu đồng/lượng bán ra.

Giá vàng SJC tại Công ty TNHH Bảo Tín Minh Châu cũng được doanh nghiệp giao dịch ở mức 66,52 - 67,08 triệu đồng/lượng (mua vào - bán ra). Giá vàng 24K Rồng Thăng Long của Bảo Tín Minh Châu niêm yết giá 2 chiều 55,72 - 56,72 triệu đồng/lượng.

Theo Kitco, giá vàng thế giới ghi nhận lúc 5h00 hôm nay theo giờ Việt Nam giao ngay ở mức 2.040,285 USD/ounce. Quy đổi theo tỷ giá hiện hành tại Vietcombank, vàng thế giới có giá khoảng 57,80 triệu đồng/lượng (chưa tính thuế, phí). Như vậy, giá vàng miếng của SJC vẫn đang cao hơn giá vàng quốc tế là 9,3 triệu đồng/lượng. Trong khi đó, giá vàng kỳ hạn của Mỹ tăng 1,5%, đạt mức 2.055,30 USD.

* Lúa Đông Xuân cạn nguồn, giá tăng 100 - 300 đồng/kg

Giá lúa gạo hôm nay 14/4 tại Đồng bằng sông Cửu Long điều chỉnh tăng 100 - 300 đồng/kg với một số chủng loại lúa. Hiện nhu cầu mua lúa Hè Thu đang tăng dần.

Theo đó, tại kho An Giang hiện lúa Đài thơm 8 đang được thương lái thu mua tại ruộng ở mức 6.600 - 6.800 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg; lúa OM 18 ở mức 6.600 - 6.800 đồng/kg, tăng 300 đồng/kg so với gạo Đài thơm 8. Theo đó, tại An Giang, lúa Đài thơm 8 đang được thương lái thu mua ở mức 6.500 - 6.700 đồng/kg.

Với các chủng loại lúa còn lại, giá đi ngang. Cụ thể, Nàng hoa 9 ở mức 6.400 – 6.600 đồng/kg; OM 5451 duy trì ở mức 6.400 – 6.500 đồng/kg; IR 504 ở mức 6.200 – 6.300 đồng/kg; nếp tươi Long An ở mức 6.600 – 6.800 đồng/kg; giá lúa nếp tươi An Giang ở mức 6.200 - 6.300 đồng/kg; Nếp khô Long An 9.000 – 9.200 đồng/kg, nếp khô An Giang giá dao động 8.400 – 8.600 đồng/kg và lúa IR 504 khô duy trì ở mức 6.500 đồng/kg.

HTX Nam Cát (Nam Đàn, Nghệ An) liên kết với doanh nghiệp thu mua lúa, bao tiêu sản phẩm giúp xã viên yên tâm sản xuất. Ảnh: Việt Phương
HTX Nam Cát (Nam Đàn, Nghệ An) liên kết với doanh nghiệp thu mua lúa, bao tiêu sản phẩm giúp xã viên yên tâm sản xuất. Ảnh: Việt Phương

Với mặt hàng gạo, giá gạo nguyên liệu, thành phẩm hôm nay duy trì ổn định. Theo đó, giá gạo nguyên liệu ổn định ở mức 9.300 đồng/kg, giá gạo thành phẩm dao động quanh mức 10.400 - 10.450 đồng/kg.

Với mặt hàng phụ phẩm, giá tấm IR 504 dao động quanh mốc 9.100 đồng/kg; cám khô duy trì ở mức 7.200 đồng/kg.

Tại chợ lẻ, giá gạo duy trì ổn định sau phiên điều chỉnh. Theo đó, gạo thường còn 11.000 – 12.000 đồng/kg; gạo thơm Jasmine 14.000 – 15.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 15.000 đồng/kg; nếp ruột 16.000 – 18.000 đồng/kg; Gạo Nàng Nhen 22.000 đồng/kg; Gạo trắng thông dụng 14.500 đồng/kg; Nàng Hoa 18.500 đồng/kg; Sóc Thái 18.000 đồng/kg; Gạo thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg; Gạo Nhật 22.000 đồng/kg; Cám 7.500 – 8.000 đồng/kg; Gạo thơm Thái hạt dài duy trì 18.000 – 19.000 đồng/kg và Hương Lài 19.000 đồng/kg.

Theo các thương lái, hôm nay gạo nguyên liệu về ít, giá gạo có xu hướng tăng trở lại. Giá lúa tươi bình ổn, lúa nếp giảm, giá lúa hè thu sớm ở mức cao. Riêng lúa, gạo Japonica tiếp tục hút hàng, nguồn ít lại. Tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long lúa Đông Xuân vãn đồng tại nhiều địa phương.

Trên thị trường thế giới, giá chào bán gạo xuất khẩu của Việt Nam hôm nay chững lại và đi ngang sau phiên điều chỉnh tăng. Theo đó, gạo 5% tấm đang ở mức 473 USD/tấn; gạo 25% tấm 453 USD/tấn.

Sau 3 tháng đầu năm, xuất khẩu gạo của Việt Nam ghi nhận sản lượng gần 1,9 triệu tấn, trị giá hơn 981 triệu USD, tương ứng với mức tăng 34% so với cùng kỳ năm trước. Đây cũng là kim ngạch xuất khẩu gạo cao nhất trong 6 quý gần nhất, qua đó đưa gạo trở thành mặt hàng xuất khẩu lớn nhất trong tháng 3 cũng như lớn thứ 3 trong quý I/2023 của nhóm nông sản.

* 70 vùng trồng, 13 cơ sở đóng gói khoai lang được phép xuất sang Trung Quốc

Cục Bảo vệ thực vật vừa nhận công hàm thông báo kết quả kiểm tra trực tuyến doanh nghiệp khoai lang Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc của Tổng cục Hải quan (GACC) nước này.

Theo đó, ngoại trừ 3 doanh nghiệp được kiểm tra trong quá trình phân tích rủi ro, các chuyên gia Trung Quốc đã tiến hành kiểm tra trực tuyến đối với 20 cơ sở đóng gói trong danh sách đề xuất của Việt Nam.

Thông qua kiểm tra trực tuyến và trao đổi kỹ thuật, các chuyên gia Trung Quốc xác nhận: 13 trong 23 cơ sở đóng gói đáp ứng được yêu cầu của Nghị định thư về yêu cầu kiểm dịch đối với sản phẩm khoai lang.

Giá thương lái thu mua giống khoai lang Nhật tại ruộng khá cao, từ 8.000-15.000 đồng/kg.

Giá thương lái thu mua giống khoai lang Nhật tại ruộng khá cao, từ 8.000-15.000 đồng/kg.

10 cơ sở đóng gói còn lại còn một số vấn đề cần khắc phục như: hệ thống quản lý chưa đạt tiêu chuẩn, thiết bị chưa hoàn chỉnh, thông số kỹ thuật không tốt hoặc cơ sở vật chất chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của nghị định thư.

Cùng với 13 cơ sở đóng gói này, danh sách 70 vùng trồng khoai lang đủ điều kiện xuất khẩu sang Trung Quốc đã được đăng tải đầy đủ trên website của Cục Kiểm dịch Động thực vật, Tổng cục Hải quan Trung Quốc.

Thời gian tới, phía Trung Quốc sẵn sàng tăng cường hợp tác với Việt Nam để thúc đẩy hơn nữa việc phát triển thương mại khoai lang nói riêng và nông sản nói chung giữa hai nước.

Cục Bảo vệ thực vật cam kết, tiếp tục phối hợp, hỗ trợ cơ quan chuyên môn tại địa phương trong công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện cho doanh nghiệp, HTX, người dân. Mục tiêu nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như mở cửa thị trường hơn nữa cho sản phẩm khoai lang.

Tin mới