Dấu xưa trên đô thị trẻ Thái Hòa

Dấu xưa trên đô thị trẻ Thái Hòa

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
(Baonghean.vn) - Khi thực dân Pháp bị đánh bại, những đồn điền rộng lớn tại khu vực Phủ Quỳ đã bị tịch thu. Riêng hàng me được trồng từ ngày người Pháp đặt chân lên đây vẫn được giữ lại, trở thành một tài sản xanh độc đáo cho vùng đất TX.Thái Hòa ngày nay…

Đồn điền xưa…

Những ngày trung tuần tháng Tư, khi những cơn gió Lào nóng bỏng bắt đầu thổi ràn rạt, chúng tôi đã có mặt tại vùng đất Thái Hòa - trung tâm hành chính, chính trị của mảnh đất Phủ Quỳ xưa, nay là thị xã sầm uất nằm bên bờ con sông Hiếu hiền hòa. Một hàng cây cổ thụ rợp bóng nằm trong lòng khối Tây Hồ 1 của phường Quang Tiến, một không gian rất tây, cổ kính và bình yên, nằm lọt thỏm giữa một phố thị đang vươn mình chuyển động mạnh mẽ. Mặc cho những ồn ào, náo nhiệt phía bên ngoài kia, hai hàng me cao vút với đường kính từ 70cm đến 1m được trồng ngay hàng, thẳng lối vươn mình bao trùm hết không gian của phố nhỏ.

Tiếp chuyện cùng chúng tôi là ông Mai Xuân Thịnh - 85 tuổi, nguyên là Bí thư Chi bộ khối Tây Hồ 1, người đã gắn bó gần như cả đời mình với hàng me tại khu vực này. Ông Thịnh là một người gốc Nam Định, đặt chân đến mảnh đất này đã được 60 năm, từ khi còn là chàng thanh niên vào xây dựng nông trường. Ông cũng là người biết khá rõ về hàng me, về những nét độc đáo mà hàng cây này mang lại cho cư dân nơi đây.

Hình ảnh đồn điền cà phê tại Việt Nam dưới thời thuộc Pháp. Ảnh: Coffeenewsvietnam

Hình ảnh đồn điền cà phê tại Việt Nam dưới thời thuộc Pháp. Ảnh: Coffeenewsvietnam

Lần ngược lại lịch sử, những năm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi quá trình thực dân hóa đang vào giai đoạn cao trào, người Pháp đã nhận ra được khu vực Phủ Quỳ là nơi có khí hậu, đất đai phù hợp với việc trồng và phát triển cà phê, cao su. Vì thế, thực dân Pháp đã gây sức ép với chính quyền phong kiến để chiếm đoạt đất đai và lập ra một vùng đồn điền rộng lớn với hàng chục ngàn ha cây cà phê, cây cao su và một số loại cây công nghiệp khác. Tuyến đường Quốc lộ 48 ngày nay cũng đã được xây dựng vào thời kỳ này để phục vụ khai thác tài nguyên, khoáng sản tại Phủ Quỳ và bình định quân sự vùng Tây Bắc Nghệ An.

Cây cà phê ở Cao Trai, một trong những nơi có cơ sở nghiên cứu cà phê ở Phủ Quỳ. Ảnh tư liệu Phạm Xuân Cần

Cây cà phê ở Cao Trai, một trong những nơi có cơ sở nghiên cứu cà phê ở Phủ Quỳ. Ảnh tư liệu Phạm Xuân Cần

Trên chính vùng đất này ngày 22 tháng 10 năm 1907, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định củng cố lại vùng Quỳ Châu - Nghĩa Đàn, đặt tại Nghĩa Hưng một sở đại diện của chính quyền cấp tỉnh, đến ngày 1 tháng 9 năm 1908 thì gọi là trạm Nghĩa Hưng. Đến ngày 3 tháng 3 năm 1930, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định, nâng trạm Nghĩa Hưng lên thành Sở đại lý Phủ Quỳ với trách nhiệm và quyền hạn lớn hơn trước. Mục tiêu của thực dân Pháp là củng cố bộ máy thống trị, tăng cường đàn áp để chiếm cứ đất đai lập đồn điền, khai thác triệt để nguồn lợi từ vùng Phủ Quỳ giàu có. Huyện Nghĩa Đàn lúc này có 6 tổng (Cự Lâm, Thái Thịnh, Nghĩa Hưng, Thanh Khê, Hạ Sưu, Lâm La), với 58 xã thôn, có con dấu riêng. Huyện đường đặt tại Tân Hiếu (xã Nghĩa Quang trước đây, nay là Quang Phong và Quang Tiến). Cơ cấu hành chính tồn tại cho đến ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công thì bị xoá bỏ.

Hình ảnh hai bên bờ Sông Hiếu ngày nay. Ảnh: Tư liệu BNA

Hình ảnh hai bên bờ Sông Hiếu ngày nay. Ảnh: Tư liệu BNA

Dưới sự tác động của việc đầu tư khai thác thuộc địa, vùng đất Phủ Quỳ trở thành một khu đô thị sầm uất vào những thập niên đầu thế kỷ XX. Trong những năm 1937 - 1940, thực dân Pháp đã cho quy hoạch lại phố xá và nhà cửa các làng Cựu Hiếu, Bắc Hiếu và đặt tên cho vùng này là Ville de Phủ Quỳ - đây cũng là lần quy hoạch đầu tiên của thị xã Thái Hòa ngày nay.

Theo ông Thịnh, trước đây hệ thống đồn điền của thực dân Pháp nằm hai bên bờ sông Hiếu, phía Đông và phía Tây của con sông này. Riêng hệ thống dinh, trại, trạm nghỉ của quan người Pháp chủ yếu được đóng ở khu vực phía Tây sông Hiếu.

Một mẩu quảng cáo điện báo của Công ty Nghiên cứu Công trình Công cộng và Tư nhân do F.L.Walthert làm chủ. F.L.Walther cũng là một trong những chủ đồn điền có diện tích đất lớn tại Phủ Quỳ. Ảnh: Tư liệu

Một mẩu quảng cáo điện báo của Công ty Nghiên cứu Công trình Công cộng và Tư nhân do F.L.Walthert làm chủ. F.L.Walther cũng là một trong những chủ đồn điền có diện tích đất lớn tại Phủ Quỳ. Ảnh: Tư liệu

Vùng đất Phủ Quỳ được thiên nhiên ưu ái cho một điều kiện đất đai, khí hậu đặc biệt. Trong đó, chủ yếu là đất đỏ bazan, rất thích hợp cho cây công nghiệp phát triển. Sau khi bao chiếm được đất đai, người Pháp bắt đầu tiến hành khai thác. Do cần nhiều lao động nên ngoài việc bắt người dân địa phương làm việc cho mình, thực dân Pháp còn huy động rất nhiều dân phu từ các địa phương khác đổ về Phủ Quỳ để làm công nhân. Chính điều này khiến cho mảnh đất này về sau trở thành quê chung cho rất nhiều người con xa xứ từ muôn phương.

Theo thống kê của PGS.TS Trần Vũ Tài - Phó Hiệu trưởng Trường Sư phạm, Đại học Vinh trong bài viết đăng trên Tạp chí Khoa học của Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội vào năm 2006, thì tại khu vực Nghĩa Đàn có rất nhiều đồn điền của người Pháp từ năm 1919 đến 1945. Trong đó, có những chủ đồn điền sở hữu diện tích đất lớn như: Walther sở hữu 6.000 ha tại Đông Hiếu, Tây Hiếu (Nghĩa Đàn); Saintard sở hữu 500 ha tại Nghĩa Hợp (Nghĩa Đàn), hay Công ty Lapic et Société tại Nghĩa Hưng (Nghĩa Đàn) với diện tích là 7.560 ha...

Theo nhà nghiên cứu Phạm Xuân Cần, Công ty Lapic et Société có trụ sở tại Vinh, sở hữu một nhà máy đồ hộp tại Bến Thuỷ và có cả đồn điền tại khu vực Phủ Quỳ. Trong ảnh là khu vực Bến Thuỷ xưa. Ảnh: Tư liệu

Theo nhà nghiên cứu Phạm Xuân Cần, Công ty Lapic et Société có trụ sở tại Vinh, sở hữu một nhà máy đồ hộp tại Bến Thuỷ và có cả đồn điền tại khu vực Phủ Quỳ. Trong ảnh là khu vực Bến Thuỷ xưa. Ảnh: Tư liệu

Cũng theo PGS.TS Trần Vũ Tài, tuy xuất hiện muộn hơn so với các khu vực khác trong cả nước, nhưng sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, hệ thống đồn điền ở khu vực Bắc Trung Kỳ, chủ yếu được thực dân Pháp tập trung củng cố và mở rộng. Đồn điền của người Pháp chủ yếu tập trung ở miền trung du, nơi có vùng đất đỏ bazan màu mỡ. Trong đó, chủ yếu phân bổ ở Hà Trung, Thạch Thành, Thọ Xuân, Cẩm Thủy, Quan Hóa, Ngọc Lặc, Nông Cống… (Thanh Hóa), ở Nghĩa Đàn, Quỳ Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu (Nghệ An) và vùng Hương Sơn (Hà Tĩnh). Hệ thống đồn điền ở khu vực này hầu hết được sử dụng để trồng cây công nghiệp và chăn nuôi đại gia súc. Trong đó, cây cà phê chiếm một vị trí quan trọng trong canh tác tại các đồn điền. Trước khi chiếm trọn vùng đất Tây Nguyên, thực dân Pháp có ý định biến Bắc Trung Kỳ thành nơi trồng và xuất khẩu cà phê lớn nhất Đông Dương.

Và thực tế, cây cà phê ở Phủ Quỳ được người Pháp chú ý trồng và khai thác rất sớm từ năm 1913, thậm chí còn trước cả vùng đất đỏ Tây Nguyên (1920-1925). Sản lượng cà phê của các đồn điền ở đây chủ yếu xuất sang Pháp dưới nhãn hiệu Arabica du Tonkin (Cà phê Arabica từ Bắc Kỳ).

Cổng chào dẫn vào khối Tây Hồ 1, nơi có hàng me cổ thụ có tuổi đời hơn 100 năm. Ảnh: Tiến Đông

Cổng chào dẫn vào khối Tây Hồ 1, nơi có hàng me cổ thụ có tuổi đời hơn 100 năm. Ảnh: Tiến Đông

…và hàng me cổ thụ

Ngày nay, những biệt thự, dinh thự của các chủ đồn điền người Pháp tại thị xã Thái Hòa đã gần như bị xoá bỏ không còn lại dấu tích. Nhưng hàng me mà người Pháp đưa sang trồng khi khai thác thuộc địa tại mảnh đất này thì vẫn còn, là minh chứng cho một thời kỳ sôi nổi ở vùng đất đỏ bazan này.

Cây me cao vút với tán lá rộng bao trùm cả con phố nhỏ. Ảnh: Tiến Đông

Cây me cao vút với tán lá rộng bao trùm cả con phố nhỏ. Ảnh: Tiến Đông

Theo ông Thịnh, ngay cả tên làng xưa và nay là khối Tây Hồ 1, hay khách sạn Giao Tế ngay đầu cổng vào khối cũng đã mang lại điều gì đó rất Tây cho khu vực này. Người dân ở đây phần nhiều không phải là người bản xứ. Trước đây, xung quanh khu vực này là đồn bốt và các biệt thự của chủ đồn điền người Pháp. Vì thế, họ đã đưa cây me - loài cây có xuất xứ từ châu Phi về trồng tại đây, về sau người dân thấy đẹp nên không ai nỡ chặt phá. Nhiều người dân địa phương cũng đã tự khảo sát, vị trí hàng me cách bờ sông Hiếu khoảng 500m về phía Tây. Điều đặc biệt là từ hàng me nhìn bao quát ra xung quanh là cả một vùng bằng phẳng, không bị núi non che chắn. Do hàng me cao che chắn nên vào mùa Hè gió từ bờ sông Hiếu thổi vào rất mát. Nhiệt độ tại khu vực hàng me có khi chênh lệch với khu vực bên ngoài từ 3-5 độ.

PV Báo Nghệ An trao đổi với ông Mai Xuân Thịnh. Ảnh: Tiến Đông

PV Báo Nghệ An trao đổi với ông Mai Xuân Thịnh. Ảnh: Tiến Đông

Hiện tại, hàng me này đang được giao cho Chi hội CCB và khối tham gia chăm sóc, bảo vệ. Để bảo vệ hàng me, theo hương ước của khối, những gia đình nào muốn xây dựng nhà cửa đều phải cách hàng me tối thiểu 80cm. Các hệ thống đường ống, mương máng khi thi công trên đường này đều không được chạm vào gốc cây.

Những người cao tuổi trong khối Tây Hồ 1 còn cho rằng, điều tiếc nuối nhất là những tư liệu về hệ thống đồn điền, các chủ đất và lịch sử ra đời của hàng me gần như không còn. Vì thế, việc xây dựng hồ sơ để được công nhận là hàng cây di sản còn gặp khó khăn. Bên cạnh đó, việc chăm sóc, bảo vệ hàng cây này cũng đang là tự phát.

Ông Mai Xuân Thịnh bên một gốc me cổ thụ. Ảnh: Tiến Đông

Ông Mai Xuân Thịnh bên một gốc me cổ thụ. Ảnh: Tiến Đông

“Trước đây, Chi hội CCB còn khai thác quả để lấy kinh phí bảo vệ hàng me, nhưng giờ đây, hàng cây ngày càng vươn cao, không ai có thể trèo mà hái quả được nên cứ để rụng tự nhiên. Nếu xây dựng được hồ sơ và có phương án chăm sóc, bảo vệ, cắt tỉa… thì tốt biết bao nhiêu. Bởi đó là tài sản, giá trị văn hoá độc đáo mà mảnh đất Thái Hòa này được ban tặng, không dễ gì có được” – Ông Mai Xuân Thịnh trầm ngâm.

Tin mới