Mái ấm trên đỉnh Pun Lon

(Baonghean) - Mấy ai biết trên đỉnh Pun Lon có đôi vợ chồng hơn 10 năm âm thầm “gieo” chữ trên vùng đất quanh năm ngập trong sương trắng. Họ đã dành trọn tuổi thanh xuân cho núi rừng và tìm được hạnh phúc ở chốn sơn cùng thủy tận.
Nơi tiếp giáp giữa trời và đất
Mùa mưa, con đường từ bản Cánh, (xã Tà Cạ - Kỳ Sơn) lên bản Đống 1 và Đống 2 (xã Tây Sơn) trơn như rải mỡ. Thực chất, đây chỉ là lối mòn nhỏ để bà con người Mông cư trú trên đỉnh Pun Lon lên xuống vùng “cổng trời” này. Con đường ấy như một sợi chỉ dài mắc qua các sườn núi, uốn lượn trên các đỉnh đồi. 
Vợ chồng thầy Nguyễn Hồ Quang chuẩn bị bữa tối.
Vợ chồng thầy Nguyễn Hồ Quang chuẩn bị bữa tối.
Xuyên qua những làn sương mây dày đặc, lên đỉnh Pun Lon chúng tôi thấy hai dãy nhà nhỏ nằm ở đầu bản Đống 2, từ đó vọng ra tiếng trẻ học bài. Người đầu tiên ra đón khách là thầy Nguyễn Hồ Quang (SN 1978), đi kèm một nụ cười rất đỗi thân thiện, dường như đã lâu lắm rồi mới có khách ghé qua. Đây là điểm trường tiểu học của bản Đống 1 và Đống 2, có tổng số 45 học sinh độ tuổi từ lớp 1 đến lớp 4. Ngôi nhà nhỏ phía bên kia là điểm trường mầm non với 23 học sinh, do cô giáo Võ Thị Minh Bình (SN 1979) phụ trách. Một điều đặc biệt, cô giáo Bình chính là người bạn đời của thầy Quang, hơn 10 năm 2 người cùng lên dãy Pun Lon “gieo” chữ, rồi gặp nhau và nên duyên chồng vợ. Cũng từ đó, họ gắn bó với miền đất quanh năm sương giá, với bản làng người Mông tít tắp trên những đỉnh núi cao.
Ngôi nhà của vợ chồng thầy Nguyễn Hồ Quang nằm giữa bản Đống 2, mái nhà được lợp bằng tôn, vách thưng bằng gỗ, phía trong đồ vật đều đơn sơ. Từ kiến trúc, kiểu dáng đến chất liệu của ngôi nhà đều mang nét đặc trưng của đồng bào Mông, không ai nghĩ đó là nhà của đôi vợ chồng người Kinh từ miền xuôi lên cư trú. 
 Pun Lon- dãy núi nằm trong dải Trường Sơn hùng vỹ, có đường biên với nước bạn Lào.  Bản Đống 1 và Đống 2 nằm ở vị trí khá đặc biệt, là điểm giao nhau giữa dãy Pun Lon và Pù Xai, Pù Mo; cũng là điểm giao nhau giữa 3 xã: Tây Sơn, Mường Típ và Na Ngoi. 
Thầy Nguyễn Hồ Quang quê ở xã Yên Khê (Con Cuông), còn cô Võ Thị Minh Bình quê ở Cát Văn (Thanh Chương). Chẳng hẹn mà gặp, tốt nghiệp ngành sư phạm cả hai cùng lên miền rẻo cao Kỳ Sơn và nhận công tác ở địa bàn xã Tây Sơn. Lúc ấy, ai cũng nghĩ lên đây mấy năm rồi sẽ tìm cách về quê nên chưa vội nghĩ đến chuyện yêu đương, xây dựng cuộc sống gia đình. Nhưng rồi, năm học ấy, tình cờ 2 người đều được phân công về dạy học ở bản Văng Lữ (nay đổi thành bản Lữ Thành). Lúc ấy, đường chưa ra đường, phải cả ngày cuốc bộ, cả bản chỉ hơn 20 nóc nhà, khí hậu khắc nghiệt, trường lớp tạm bợ, học trò thiếu thốn...  Từ tình yêu nghề, sự cảm thông về những khó khăn, vất vả nơi rừng sâu heo hút, tình cảm giữa 2 người đến một cách giản dị, tự nhiên và tình yêu của họ được gia đình, đồng nghiệp, bạn bè vun đắp, đi đến hôn nhân vào năm 2006.   
Thành người của bản Đống 2
Năm học tiếp sau, vợ chồng thầy Quang được điều lên “cắm” ở bản Đống 2, là 1 trong 2 bản xa xôi nhất của xã Tây Sơn, nơi đất và trời chỉ cách nhau làn sương trắng. Bà con người Mông ở bản Đống lúc ấy không mấy ai nói được tiếng phổ thông, thầy Quang và vợ lại chưa biết nhiều về tiếng Mông. Vậy là 2 vợ chồng  thầy Quang quyết tâm học tiếng Mông. Sau những giờ lên lớp, thầy Quang và cô Bình đến từng gia đình để chuyện trò, động viên các bậc phụ huynh tạo điều kiện cho con em đến lớp.Thấy thầy cô ở miền xuôi lên nói được tiếng Mông, bà con rất cảm phục và thêm yêu mến. Mỗi lần thầy cô đến nhà vận động, các bậc phụ huynh vui vẻ đồng ý đưa con em mình đến lớp. Và mỗi lần gia đình có việc quan trọng, bà con bản Đống 2 đều tìm đến hỏi ý kiến thầy cô, mời thầy cô đến nhà tham dự những buổi lễ quan trọng, xem họ như những thành viên trong gia đình. 
Vợ chồng thầy Quang và cô con gái út
Vợ chồng thầy Quang và cô con gái út
Qua năm tháng, thầy Quang, cô Bình nhận thấy con người và mảnh đất này dù xa xôi nhưng rất đỗi thân thương, gần gũi, như là quê hương thứ hai. Đôi vợ chồng giáo viên này quyết định gắn bó lâu dài với chốn thâm sơn cùng cốc này. Việc trước tiên là chuyển hộ khẩu lên bản Đống 2, trở thành gia đình người Kinh duy nhất trong cộng đồng của đồng bào Mông.  Không chỉ sõi tiếng Mông như người Mông, thầy Quang giờ còn dạy cả tiếng Mông và chữ Mông cho người Mông. Thầy còn thổi chiếc khèn lá thành thạo, mỗi khi nghe tiếng khèn ấy, người dân bản địa thường nói: “Anh thầy ấy thành người Mông, thành người bản Đống rồi”. Còn cô giáo Bình đã học được những làn điệu dân ca Mông như cự- xia, lù- tẩu và điệu hát ru để ru các bé đi vào giấc ngủ ban trưa. 
Mái ấm trên đỉnh Pun Lon của vợ chồng thầy Nguyễn Hồ Quang giờ có 4 thành viên. Hai con gái là Nguyễn Thị Nhật Uyên (SN 2008) và Nguyễn Thị Việt Nữ (2013) đều lớn lên trên vùng đất lắm sương nhiều gió này.
vợ chồng thầy Quang, cô Bình cùng soạn giáo án
vợ chồng thầy Quang, cô Bình cùng soạn giáo án
Đêm, dường như mùa Đông đã “gõ cửa” từng ngôi nhà trên đỉnh Pun Lon, những cơn gió lạnh lùa vào kẽ vách. Dưới ánh điện đèn cù nhập nhòe mờ tỏ, vợ chồng thầy Quang miệt mài với trang giáo án, mặc cho phía ngoài cơn mưa rừng đang xối xả. 
Tiếng gà gáy sáng lần thứ 3, sương đang quây kín mặt đất, thầy Quang bước sang điểm trường đánh hồi trống giục học sinh đến lớp. 
CÔNG KIÊN

Tin mới