Hai cây thị thiêng ở bản Nật Trên

(Baomnghean) - Người ta tin rằng 2 cây thị ở bản Nật Trên tồn tại từ ngày những người đầu tiên đến đây lập bản. Tuổi thọ của những cây cổ thụ này dễ chừng đã mấy trăm năm.

“Năm nay đã 68 tuổi, từ nhỏ đến giờ tôi thấy mấy cây thị này không lớn thêm lên và cũng chẳng già đi. Cha tôi ngày trước cũng bảo vậy”. Đó là tâm sự của cụ ông Lô Minh Hoạt, già làng uy tín của bản Nật Trên xã Châu Hoàn (Quỳ Châu) nói về hai cây thị trong bản. Cây thị lớn ở trong khuôn viên nhà văn hóa cộng đồng bản, cây còn lại ở phía đối diện, trong vườn một nhà dân.

Nơi trú ngụ của ma bản

Cây thị hàng trăm năm tuổi trong khuôn viên Nhà văn hóa cộng đồng ở bản Nật Trên
Cây thị hàng trăm năm tuổi trong khuôn viên Nhà văn hóa cộng đồng ở bản Nật Trên.

Người dân bản Nật Trên gọi cây thị trong khuôn viên nhà văn hóa cộng đồng là “Có Pụ” với hàm nghĩa chỉ cái cây thiêng, nơi trú ngụ của ma bản. Cây thị cổ thụ cũng được cho là nơi trụ ngụ của vị thần cai quản linh hồn của người dân bản Nật Trên. Gốc cây có chu vi khoảng 7m, cao hơn 20m. Tán lá xòe rộng chiếm non nửa không gian khuôn viên nhà văn hóa cộng đồng. Bên gốc cây người dân xây một miếu thờ nhỏ, một kiểu đền bản của người Thái ở vùng cao Nghệ An. 

Ở bản Nật Trên từng có 3 cây thị. Chúng chỉ cách nhau một quãng vài chục mét tạo thành thế tam giác. Thế nhưng có một cây đã bị chặt hạ cách đây hơn chục năm. Gốc cây cụt đang mọc lên những mầm chồi mới.

Lễ cúng “lắc xừa” ở bản Nật Trên còn gọi là “việc bàn” (việc bản) thường diễn ra vào ngày 16 tháng 2 âm lịch hàng năm. Ngày này, cả bản nghỉ việc nương rẫy, đồng áng chú tâm lo việc tâm linh. Mỗi nhà làm một mâm cúng đến ngôi đền bản cạnh cây thị dâng lễ vật lên ma bản, ma rừng núi, khe suối chảy qua bản. Đó là những “vị khách” được mời trong lễ cúng. Mâm lễ vật trong ngày cúng chỉ đơn giản là 10 gói “moọc” được chế biến tờ cá, gạo giã nhuyễn và một số gia vị hông chín. Ngoài ra mâm lễ vật còn thêm một chai rượu.

Sau nghi lễ này người ta tập trung về nhà một người đứng đầu trong bản mở hội rượu cần. Ngày nay thường là nhà của trưởng bản hoặc bí thư chi bộ. Gần đây người dân trong bản chọn nhà văn hóa cộng đồng làm nơi hội hè. Phần hội trong ngày lễ “lắc xừa” của người dân bản Nật Trên thường diễn ra ngay cạnh cây thị cổ thụ.

Huyền thoại Tạo Nật

Đền thờ do người dân lập nên ngay dưới gốc cây thị
Ngôi đền bản  thờ do người dân lập nên ngay dưới gốc cây thị.

Người dân bản Nật Trên tin rằng những người thiên di về đây lập bản đã trồng nên cây thị từ cách đây mấy trăm năm, thậm chí là nghìn năm. Nhưng theo trưởng bản Vi Ngọc Dung thì cây thị có thể do Tạo Nật trồng cách đây khoảng vài trăm năm, khi ấy vị này được Pỏ Phạ ở mường Che Le (Tri Lễ - Quế Phong ngày nay) phong làm “tạo”, người đứng đầu của bản.

Thời trước, bản Nật Trên có tên gọi là Láng Lúm vì nằm dưới thung lũng. Khi ấy cả vùng chỉ mới có 2 bản là Láng Lúm và Na Bà là bản trung tâm xã Châu Hoàn. Ngày ấy trong vùng chưa có người cai quản, tức là “tạo”. Hàng năm, mỗi mo bản phải đi chầu chực Pỏ Phạ mường Che Le để tỏ lòng thần phục, sùng kính và chủ yếu là cống nạp thuế trong đó có khoản “xề cạu hỉa” tạm gọi là thuế đất. Đến năm nọ, mo bản Láng Lúm bị ốm nên cử con trai tên gọi là Nật đi nộp thuế thay.

Cũng như bao nhà khác, dưới nhà sàn của Pỏ Phạ cũng có vũng nước bẩn “noong chản” vốn là nước đọng do sinh hoạt thải ra. Con dâu Pỏ Phạ sơ ý đã đánh rơi chiếc nhẫn vàng xuống vũng nước. Cô ta tiếc rẻ bảo khéo với bố chồng. Lúc này Pỏ Phạ trong lòng nảy ra ý định thử lòng dạ của những kẻ dưới quyền liền dò hỏi trong đám khách ai có thể giúp con dâu của mình tìm lại nhẫn vàng dưới vũng “noong chản” sẽ được trả công xứng đáng. Chẳng có vị khách nào chịu nhận làm công việc chẳng lấy gì làm vinh quang này. “Ai lại sai khách đi tát vũng nước phân nhà chủ tìm nhẫn vàng?”, những người đứng đầu các bản đều chung suy nghĩ như vậy.

Nật thấy vậy liền xung phong nhận đi tìm nhẫn vàng. Anh dùng chiếc chậu đồng tát cạn vũng bùn và mò được chiếc nhẫn trình lên Pỏ Phạ. Bấy giờ Pỏ Phạ hỏi Nật muốn được trả công như thế nào. Nật nghĩ trong bụng bản mình nghèo nhưng năm nào dân cũng phải đóng thuế rất khổ, liền nói: “Tôi chẳng lấy gì đâu, chỉ xin Pỏ Phạ miến thuế cho bản trong 3 năm.” Pỏ Phạ thấy Nật là người biết thương dân nên phong cho làm “Tạo Nật” để cai quản bản mường.

Từ đó bản Láng Lúm có “tạo mường”. Khi đã có “tạo” người ta dần quen gọi là bản Nật, để tỏ sự khâm phục một người đã xin miễn thuế cho dân. Cái tên bản Nật được gọi nhiều thành quen. Sau này bản Nật tách thành 2 bản là Nật Trên và Nật Dưới. Những cây thị ở bản Nật Trên có thể được trồng khi tạo Nật lên làm người đứng đầu bản mường. Người ta trồng thị trong bản với ý cầu mong sự sung túc cho cộng đồng làng bản.

HỮU VI

TIN LIÊN QUAN

Tin mới